DẤU ẤN TẠO HÌNH CHĂM PA
Trần Hậu Yên Thế
Vào thế kỷ 15-16, hay chính xác hơn là năm 1471 về trước, sẽ là rất khó khi đi tìm dấu ấn văn hóa Đại Việt trong lòng văn hóa Chăm pa. Nhưng lại có phần dễ dàng hơn khi đi tìm những dấu ấn văn hóa Chămpa trong lòng Đại Việt. Đọc
Đại Việt sử ký toàn thư, chúng ta chỉ thấy các ông vua Đại Việt sau những lần chinh chiến với Chămpa bắt về hàng trăm kỹ nữ, hàng ngàn tù binh và một vài nhà sư. Nhưng chính sử không có ghi những điều ngược lại, nghĩa là trong những cuộc chiến của Chămpa ra Thăng Long, không thấy ghi vua Chămpa bắt bao nhiêu kỹ nữ Đại Việt, bao nhiêu tù binh, bao nhiêu nhà sư. Khi các nhà khảo cổ tìm thấy trong Hoàng thành những đầu tượng rồng bằng đất nung rất giống các con thủy quái Makara, các con phượng hao hao những con ngỗng Hamsa, thì chúng ta càng có thêm cơ sở để hình dung trong rất nhiều tù binh ghi trong sử sách được các vua Lý Trần bắt về là những người thợ Chămpa tài hoa. Quanh kinh thành Thăng Long cho đến nay vẫn còn nhiều tên đất tên làng, những truyền thuyết gắn bó với người Chămpa. Chúng ta không biết chính xác số người Chăm trong từng thời kỳ lịch sử, nhưng đã có lúc hẳn là không ít. Từng có một ông vua Trần ra lệnh cấm nói tiếng Chămpa, từng có một hoàng thân nhà Trần cưỡi voi tới khu vực người Chăm gần kinh thành chơi liền ba ngày.
Xét về vị trí địa lý, Hoa Lư gần với Thăng Long hơn, lại gần kề với biển. Đến nay chúng ta chưa có nhiều những chứng cứ khảo cổ để xác định mối giao lưu văn hóa Đại Cồ Việt và Chămpa thời Đinh- Lê. Nhưng sau cuộc chiến năm 982 của Lê Hoàn đã ít nhiều xác lập được mối bang giao hòa hiếu. Trên cố đô Hoa Lư từng có hai ông vua mang dòng máu Chămpa, vua Lê Trung Tông và Lê Long Đĩnh. Một di nữ ( theo Đại Việt sử lược) là một trong năm hoàng hậu của vua Lê Đại Hành đã sinh hạ cho đời Tiền Lê hai ông vua đoản mệnh. Theo năm sinh của Trung Tông (983) và Long Đĩnh (986 ), có học giả đã phỏng đoán người di nữ này là một trong số các chiến lợi phẩm sau cuộc “bình Chiêm” năm 982. Truyền thuyết ở Hoa Lư còn nhắc đến câu chuyện “quả khế Chiêm Thành” trong vườn thượng uyển của vua Lê Ngọa Triều là do người xứ Chiêm Thành cúng tiến.
Trong đền vua Lê trước đây có đôi tượng phỗng Chàm. Tiếc là nay đã không còn. Nhưng thông qua cách tiếp cận phong cách học nghệ thuật, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy những dấu ấn Chămpa nơi đây trong rất nhiều thế kỷ, qua nhiều lần tu sửa ở hai ngôi đền.
Rồng có những cánh tay thon mềm
Hình ảnh những cánh tay rồng như của các vũ nữ trên mặt sập đá đền vua Đinh là một chuyện lạ. Tạo hình người Việt không có truyền thống khai thác sự biẻu cảm của các thế tay. Trung Hoa cổ cũng vậy thôi. Họa luận Trung Hoa có nói việc vẽ tay người là khó nhất. Cả người Việt và người Hán đều đã học hỏi được rất nhiều vũ đạo của Ấn Độ và Tây vực. Vũ đạo Trung Hoa chỉ từ đời Đường mới khai thác nhiều sự uyển chuyển của bàn tay cho đến các ngón tay. Có những ảnh hưởng từ Tây Tạng lan tới Trung Hoa rồi đến Việt Nam. Tượng quan âm nghìn mắt nghì tay chủa Bút Tháp là một ví dụ điển hình. Sử có ghi năm Minh Đạo thứ 3 (1044) vua Lý đánh vào thành Phật Thệ, bắt các vợ cả vợ lẽ của Vua Chiêm Thành cùng các cung nữ giỏi hát múa điệu Tây Thiên. Chắc hẳn những điệu múa của các vũ nữ Chăm pa với những điệu múa Tây Thiên đã làm mê đắm bao nhiêu ông hoàng Đại Việt.
Những con nghê có khuôn mặt của các Dvarapala (hộ pháp).
Trong tín ngưỡng và nghệ thuật Chămpa, không có con vật nào giống với con nghê cả. Chó là con vật không có chỗ đứng trong cả Ấn Độ giáo và Phật giáo. Hiện tượng con nghê đá trước nghi môn ngoại có tạo hình
giống với tượng Dvarapala ở Tháp Mẫm ở những điểm sau: Mắt to, mũi khoằm, râu soắn, …Tóm lại là những đặc điểm nhân chủng của người Đa đảo được thể hiện qua phong cách Ấn Độ. Cho nên, nói cho thật đúng, là cặp nghê này có tạo hình không chỉ giống với một bức tượng hộ pháp Chămpa nào đó, mà vì nó mang hơi thở của nghệ thuật Ấn Độ, nên nó còn rất giống với nhiều bức mặt nạ các nhân vật sử thi trong các điệu múa cung đình ở Lào, Thái Lan. (Hình minh họa)
1. Tượng nghê đá ở đền vua Đinh 2. Tượng Hộ pháp ở Tháp Mắm 3. Mặt nạ vũ đạo cung đình Lào
Cũng có thể với người Chăm, những niềm tin thành kính được họ chắt chiu trong từng nhát đục. Nên: ta luôn cảm thấy được sự thiêng liêng trên từng pho tượng. Cặp nghê đá hai bên Nghi môn ngoại được khuôn lại trong cái dáng ngồi rất tĩnh. Cái lưng khom khom trông rất đỗi thân quen và trìu mến.
Cặp nghê đã nhuốm màu thời gian, rêu phong và lặng lẽ. Sự khiêm nhường của nó, vô tình làm các nhà nghiên cứu bỏ qua trong các công trình nghiên cứu và các du khách thờ ơ trong các bức hình lưu niệm. Ở đền vua Đinh, hai cặp nghê đá có hai phong cách nghệ thuật với hai niên đại nghệ thuật không đồng nhất. Sự khác biệt về phong cách ở đây là sự phai nhạt phong cách Chămpa trong hệ thống điêu khắc đền vua Đinh vua Lê. Cặp nghê đá hai bên Bái đường là sự chuyển tiếp sang phong cách Trung Hoa. Cặp nghê đá này cũng là một tác phẩm điêu khắc đá xuất sắc. Nhưng gió đã bắt đầu nổi lên, các khối lông bờm đã bắt đầu bồng hơn. Người Trung Hoa đặc biệt thích gió. Phong ( gió) là một thuật ngữ quan trọng trong văn hóa Trung Hoa. Một người phương Tây sẽ rất khó hình dung tại sao trong các từ chỉ dạng thức nghệ thuật (phong cách), truyền thống tập tục (phong hóa) , sự lẳng lơ (phong tình), sự uy nghi (oai phong), dáng vẻ bên ngoài (phong mạo) đều có liên quan đến chữ phong.
Những con rồng, con lân, con long mã, con nghê thường thấy với những búi bờm hất tung lên, xoắn xuýt cuồn cuộn. Trong thành ngữ tiếng Hán khi chỉ một nhân vật có thế lực đầy quyền uy người ta chỉ cần nói phong lưu nhân vật.(minh họa) Con nghê ở đây ( bên trong) đã không còn dấu ấn nhân chủng Chămpa nữa. Sống mũi không còn khoằm, tai không tròn nữa. Xem lâu cặp nghê đá bên ngoài Nghi môn ngoại, ta thấy có bóng dáng con người trong đó. (minh họa)
Khuôn mặt của các Kala
Trên sập đá ở hai đền vua Đinh vua Lê có rất nhiều khuôn mặt hung dữ. Người Việt chúng ta gọi nó là Thao Thiết. Một con vật tương truyền là con vật hung dữ là Kala. Có một điểm tương đồng về vị trí của các Thao Thiết ở đây cũng giống như các hình phu điêu Kala trên mặt trước của các bệ ngồi của các tượng thần, tượng La hán trong điêu khắc Chăm Pa. Đặc biệt là thao thiết trên sập đá ở đây cũng có những giải hoa lá đi ra từ hai bên mép như của các Kala. (minh họa)
Khuôn mặt của các lực sỹ mang nhân chủng Nam Á.
Ở bốn chân của sập đá lại còn có bốn khuôn mặt lực sỹ điển hình nhân chủng Ấn hệ là mũi khoằm, râu xoăn, mắt to rõ vành.
Tượng rồng ở các bậc lan can
Trong vô số các đồ án rồng Trung Hoa, người ta rất ít thậm chí gần như không có những bức tượng rồng tách khỏi các cột trụ hay các dầm xà. Việt Nam vẫn còn lại cho đến nay những cặp tượng rồng uốn lượn trên các bậc thềm như ở đàn Nam Giao, Hà Nội ( TK 14), Lam Kinh, Thanh Hóa (TK 14). Những con rồng đá làm lan can này có truyền thống của Chân Lạp và Chiêm Thành. Thế nên ở đây, tại đền vua Đinh cũng có hai đôi rồng đá khắc rất sống động. Những đôi rông đá xuất hiện từ những gợi ý của các con Makara trên các lan can ở các đền thờ nhưng lại được tạc theo phong cách rồng đời Minh Trung Quốc.
Đồ án phượng – ngỗng
Đồ án phượng hoàng cũng là một đồ án rất quen thuộc với người Việt. Vậy nhưng tại sao trên trên trán bia khắc năm Chính Hòa thứ 17 lại khắc hình con phượng như hình con ngỗng. chúng tôi ngờ rằng đây là một sản phẩm gia công chế từ con ngỗng thiêng Hamsa thành con chim phượng hoàng. Đây là một hiện tượng văn hóa chứ không phải là do sự non nớt của người thợ. Chúng ta nghĩ sao khi mà đề tài tứ linh chỉ thực sự nở rộ vào đời Nguyễn. Khi mà trên toàn bộ hệ thống đồ án điêu khắc trên gỗ ở hai đền vua Đinh vua Lê ( từ TK 16 đến 17) không hề có một đồ án chim phượng nào. Và chúng ta nghĩ sao khi đền vua Lê đều có đôi xà ngỗng cực đẹp.
Đồ án Sư tử
Sư tử không có ở cả Trung Quốc và Việt Nam. Cho nên đồ án sư tử của Trung Hoa và Đại Việt đều khá xa với nguyên mẫu thực tế. Nhưng trong mỹ thuật Chămpa thì sư tử hiện lên rất sinh động va cũng khá gần với cấu tạo thực. Cho nên, chúng tôi có nhận định rằng đồ án sư tử trên sập đá đền Đinh theo phong cách tả thực là có nguồn gốc Chămpa. Sách Đai Việt sử ký toàn thư có ghi người Chiêm Thành thành năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) dâng sư tử. Mô- típ Thanh long Bạch hổ, long – phuợng, long - lân đã là mẫu mực thì không lẽ gì người ta lại khắc hình rồng múa với sư tử.
Phong cách xử lý bề mặt chất liệu
Phong cách Chămpa không chỉ hiện diện trên khuôn mặt con nghê, con phượng, con sư tử mà còn ghi dấu rõ nét trên cách tạo khối, phương thức xử lý bề mặt chất liệu đá. Các nghệ sỹ Chămpa thường miên man trên những bề mặt nhẵn lì rồi bất thần làm ta rộn lòng với những đường nét trang trí rất tinh tế. Khi xem nghệ thuật điêu khắc Chămpa, tôi cảm thấy như đang đứng trước những bãi biển phẳng lì ở Aya Trang (Nha trang) hay Phanrik ( Phan Rí) ngắm những con sóng lăn tăn. Cái cảm hứng đại dương trong nhịp điệu của đường nét trên các pho tượng thật sâu lắng. Nghệ thuật Chămpa cũng như các nền nghệ thuật ảnh hưởng nghệ thuật Ấn Độ khác khi tạc người hay các con thú, không mấy bận tâm tới trang phục hay đám lông mao, vi vẩy của động vật – như cách làm thường thấy trong nghệ thuật Trung Hoa. Người Trung Hoa say mê gió nên họ rất muốn nhờ những râu bờm, vi vẩy để tả cái gió (khí) nổi lên cuồn cuộn. Còn người Chiêm Thành sống cùng bão tố từ đời này qua đời khác nên họ thích sự êm đềm của những bờ cát chạy dài suốt dải miển Trung. Nếu phải lựa chọn dấu ấn Chămpa nào là đậm nét nhất ở Hoa Lư, tôi sẽ chọn cặp nghê đá bên cạnh Nghi môn ngoại.
Khác với cuộc du khảo văn hóa Chăm của hai nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Kự và Ngô Văn Doanh trên dải đất Chiêm Thành xưa, chúng tôi lại muốn được dẫn dắt mọi người vào cuộc thám hiểm văn hóa Chăm ngay tại kinh đô Hoa Lư, kinh đô đầu tiên của nước Đại Việt. Có lẽ chuyến du khảo này giống như cách đi tìm những phẩm chất Hy Lạp trên các bức tượng ở Roma của đế chế La Mã.
(Bài viết đã công bố: trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật năm 2008 số 284)
RỒNG CÓ NHỮNG CÁNH TAY MỸ NỮ
1 Vấn đề rồng năm móng
Rồng tuy là con vật tưởng tưởng, hoang đường nhưng khi trở thành một biểu tượng cho giai cấp thống trị lại được quy định hết sức chi tiết. Theo định chế của nhà Minh như trong “Minh sử” hoa văn rồng của vua chúa có đủ năm móng, còn hoa văn rồng ba hoặc bốn móng là quà vua ban thưởng cho các quan lại.
Dẫu vậy rồng năm móng cũng đã lẻ tẻ xuất hiện trên đồ gốm, trên cột đá chùa Dạm thời Lý. Phải tới thời Nguyễn, đồ án rồng năm móng mới được thấy lại ồ ạt trong cung đình Huế. Đồ án rồng trên một số tấm bia ở Lam Kinh vốn được coi là mỹ thuật thời Lê Sơ. Nhưng nay, dựa vào sử liệu và phong cách đồ án, họa sỹ Phan Bảo đã chất vấn về niên đại của những tấm bia này, cho rằng chúng có niên đại vào thời Nguyễn ( ).
Minh họa bia lăng Lê Hiến Tông ( Xuân Lam, Thọ Xuân, Thanh Hóa)
2 Những cánh tay thon thả
Điểm đặc sắc nhất của đồ án rồng trên sập đá trước nghi môn ngoại đền Vua Đinh là con rồng đầy đủ râu tóc, râu ria, sừng hươu, vẩy cá lại có những cánh tay mềm như cách tay của mỹ nhân. Đây là hiện tượng chưa từng gặp không chỉ ở Việt Nam mà còn rất đặc biệt ở Trung Quốc. Trên tất thảy các bộ phận hư cấu của rồng không có cái gì của con người, liên quan tới con người. Giống như các tô tem hình thành từ thời thượng cổ khác, đồ án rồng là tập hợp các tướng dữ nhất của các loài động vật. Người nguyên thủy sống trong nỗi sợ hãi trước các thế lực siêu nhiên, trước những đe dọa của các loài thú dữ. Chính vì thế họ tôn thờ hổ thờ rắn, thờ sói… Sách “ Trung Quốc họa luận” của Vương Phù thời Hậu Hán giải thích về rồng như sau:” Con tồng có 9 cái giống, đầu giống rắn, sừng giống hươu, mắt giống thỏ, tai giống trâu, cổ giống rắn, bụng giống con cọp, vẩy như cá chép, vuốt như chim ưng, lòng bàn chân giống hổ…và có râu ria bên mép, có hạt ngọc dưới cằm, có vẩy mọc ngược dưới cổ họng” ( ). Tóm lại, với nguyên lý tổ hợp của những “tướng dữ”, trên cơ thể rồng không thể có sự hiện diện của con người. Và những ngón tay búp măng, cánh tay mềm như nhung càng không thể nào xuất hiện được.
3. Tư thế khoanh tròn, tự trói buộc của rồng
Đồ án rồng trong lịch sử tạo hình phong kiến luôn mạnh mẽ, oai phong, nhe nanh múa vuốt. Nhưng ở đây rồng nằm khoanh tròn trên sập. Sừng, bờm, râu những thứ phô diễn uy lục của rồng lại bị chính tay chân rồng tóm chặt lấy. Và đây cũng là điều chưa từng có. Khi nhìn từ xa, thấy những hình con thao thiết hung dữ, chiếc sập toát ra vẻ uy nghi lạ thường. Tới khi lại gần, nhìn vào mặt sập, thấy nó cũng oai phong; nhưng nhìn hồi lâu, lại thấy nó rất tù túng, bị trói buộc.
Trên chiếc sập ở trước nghi môn ngoại này, đồ án rồng không hề tạo ra cái uy quyền của thiên tử. Mặc dù nó có đầy đủ biểu hiện của một con rồng của thiên tử. Sự mâu thuẫn ở đây chắc chắn không phải do sự non nót về nghề nghiệp. Những cánh tay rẩt tròn trịa, rất nuột nà làm chúng ta liên tưởng tới những cánh tay của các vũ nữ Chiêm Thành, hay của Phật bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt ở chùa Bút Tháp.
4 .Thử xác định niên đại của đồ án
Nếu căn cứ vào văn bia chúng ta không có căn cứ để xác định niên đại cho chiếc sập rồng này. Chiếc sập trước nghi môn ngoại rêu phong nhiều hơn và các đường hoa văn cũng bị phong hóa nhiều hơn chiếc sập đá trước bái đường. Liệu chiếc sập đá này có cùng niên đại với ngôi đền Vua Đinh hay có từ trước đó. ( )
Nguời viết không tìm thấy trên các văn bia những thông tin về niên đại các sập đá. Rất may ở chính diện mặt bên của sập có đôi rồng chầu chữ Thọ là đồ án rồng lưng võng.
Căn cứ vào phong cách lịch sử tạo hình của đồ án rồng, ta chỉ có thể phỏng đoán là sập đá này không thể có trước thời Lê sơ. Bia Thiệu Trị thứ 3 ( 1843) có nói đền Vua Đinh được xây khoảng từ năm Quan Hưng tới Chính Hòa đời nhà Lê. Bia năm Hoằng Đinh thứ 7 (1606) – là chiếc bia đầu tiên nói về việc xây dựng đền. Từ đây có thể phỏng đoán chiếc sập khoảng từ cuối thời Quang Hưng sang đầu thời Hoằng Định ( 1598 đến 1608).
5 Những giả thiết về bí ẩn của đồ án rồng trên sập đá trước Nghi môn ngoại
Những liên tưởng về lịch sử.
Quần thể đền thờ vua Đinh Lê được thi công dưới sự chỉ đạo của quận công Bùi Thời Trung, một hàng tướng nhà Mạc, dưới sự bảo trợ của chúa Trịnh Tùng. Chiếc bia “ Tiền triều Đinh Hoàng Đế miếu công đức tịnh minh” trong nhà bia đền vua Đinh đã ghi lại việc này.
Đây là giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Các cuộc nội chiến diễn ra do sự tranh giành của các thế lực phong kiến. Đầu tiên là cuộc chiến của nhà Lê với nhà Mạc. Tiếp sau là của chúa Trịnh với nhà Mạc và với chúa Nguyễn. Sau khi dẹp xong nhà Mạc, ngày 16 tháng 4 năm Quý tỵ (1593) Vua Lê Thế Tôn lên chính điện thiết triều trước sự hân hoan của bá quan văn võ. Là trụ cột trong công cuộc Trung Hưng nhà Lê, Trịnh Tùng tự xưng là Đô nguyên súy Tổng quốc chính thượng phụ Bình An vương, quyền hành nắm trong tay thế lực học Trịnh, các vua Lê chỉ ngồi khoanh tay rũ áo không làm gì. Việc lập thái tử, lập hoàng phi của nhà Lê đều do một tay chúa Trịnh cáng đáng. Bởi từ đây rất nhiều các hoàng hậu nhà Lê là dòng dõi họ Trịnh, như hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, Trịnh Thị Ngọc Trang, Trịnh Thị Ngọc Áng… Thân phận của các vua Lê thời Lê Trung Hưng về sau là những bóng đen ẩm đạm trên sân khấu lịch sử.
Giả thiết thứ nhất của chúng tôi là đồ án rồng với những cánh tay đầy nữ tính này phản ánh cục diện hôn nhân và sự chi phối quyền lực thông qua hôn nhân của thời vua Lê chúa Trịnh.
Giả thiết thứ hai là Trịnh Tùng cho đặt các sập đá có các hình rồng dạng “ Tiềm long” ( ) nhằm triệt cái khí đế vương của cố đô Hoa Lư. Nơi khởi nghiệp của cả nhà Đinh và nhà Tiền Lê. Vì lúc này, Quận công Bùi Thời Trung con của danh tướng Bùi Văn Khuê, một hàng tướng nhà Mạc quy theo nhà Lê được phong Đô đốc Hiệu lực tứ vệ quân sự bộ Lễ cũng là một mối lo về một thế lực đe dọa tới chúa Trịnh. Gia đình Bùi Thời Trung là một gia đình có tới 5 quân công. Cha Bùi Thời Trung là Bùi Văn Khuê sau khi về với Trịnh Tùng không lâu (năm1600) đã từng cùng với Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm nổi loạn ở của Đại An. Ngay sau đó, Phan Ngạn ( quận Kế) giết Bùi Văn Khuê ( quận Mỹ). Thuật trấn yểm mạch đế vương vốn lưu hành từ xưa. Việc làm sập đá lại do các thợ đá ở Thanh Hóa, quê hương của chúa Trịnh nên có thể có sự chỉ đạo, thao túng của họ Trịnh ( ). Nhưng giả thiết thứ hai khó lòng đứng vững vì ngôi đền này thuộc về xã Trường Yên thượng. Với sức mạnh của văn hóa làng, liệu có thế lực nào đủ mạnh để có thể chi phối nó? Việc trấn yểm cái mạch khí đế vương đất Hoa Lư tại sao chỉ trấn yểm riêng đền vua Đinh? Và tại sao khi nhà thế lực nhà Trịnh chấm dứt (1786) vật trấn yểm kia không bị loại bỏ.
Nguồn
trannhuong.comTrích nhận xét của Nguyễn Xuân Diện:
.............
Việc trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam chủ trương tiến hành sưu tập để đưa đến cho công chúng yêu nghệ thuật cổ một triển lãm về mỹ thuật Đền Vua Đinh và Vua Lê trong bối cảnh cả nước đang hướng tới đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long là một việc làm có ý nghĩa rất tốt đẹp, thể hiện trách nhiệm và sự đóng góp của các nhà nghiên cứu mỹ thuật đối với đại lễ. Những bản rập, những bức ảnh được tiến hành sưu tập và in rập một cách công phu, đúng bài bản trong triển lãm cho thấy tay nghề và cả sự trân trọng của họ đối với di sản của cha ông (được biết Trần Hậu Yên Thế là người đề xướng ý tưởng, cùng sự tham gia của các cán bộ nghiên cứu Ban Mỹ thuật Cổ, Viện Mỹ thuật thuộc trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam).
Là một người theo đuổi đề tài mỹ thuật đền Đinh-Lê từ nhiều năm, Trần Hậu Yên Thế (THYT) đã phát hiện những đôi tay mềm mại của vũ nữ trên sập đá đặt ở tam quan ngoại của khu đền vua Đinh. Ngay lập tức, đồng thời với cuộc triển lãm đang diễn ra, nhà nghiên cứu này đã chia sẻ niềm vui này với công chúng bằng bài giới thiệu trên Thể thao & Văn hóa. Tuy vậy, THYT với sự thận trọng chỉ nêu ra một liên hệ về ảnh hưởng và giao thoa Việt – Champa trong những “cánh tay vũ nữ mềm mại”. THYT không đưa ra những đồ án Champa để so sánh, có lẽ vì vẫn chưa xác quyết lắm!
THYT đưa ra ba giả thiết về những cánh tay rồng mềm mại, hai giả thiết được đưa ra trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 1- 2008, giả thiết thứ ba đưa ra trong bài viết trên Thể thao & Văn hóa số ra ngày 3/4/2009. Điều này cho thấy nhà nghiên cứu này luôn luôn trăn trở với những cánh tay mềm mại của rồng.
Trang Thanh Hiền (TTH) có lẽ đã rất tán thưởng với phát hiện này của THYT. TTH đã suy nghĩ lý giải theo hướng tìm mối liên hệ giữa đồ án trang trí rồng với bối cảnh tín ngưỡng và việc thờ các nhân vật trong khu đền. TTH không tìm được những bằng chứng trực tiếp nào trong sử liệu, thư tịch cổ để có thể kết luận rốt ráo rằng ba cánh tay mềm mại đó chính là để nói lên hiện tượng một bà hoàng hậu lấy hai/ba ông vua. TTH chỉ có một bàng chứng (chứng cứ bên lề) rằng việc người ta đã đưa bà Dương Thái hậu ra khỏi điện thờ đền Đinh sang đền thờ vua Lê vào thời Hậu Lê. Ngoài ra có một sự thực khác là trên các cấu kiện, thành phần kiến trúc khi trùng tu đền Đinh vào thế kỷ XIX khi tượng bà Dương Thái hậu không còn ở đây thì cũng không còn hình con Phượng xuất hiện mà chỉ có Long, Ly, Quy mà thôi. Mặc dù rất tâm đắc với lý giải của mình, nhưng với sự thận trọng của một nhà nghiên cứu mỹ thuật cổ có kinh nghiệm và nghiêm túc, TTH vẫn không dám kết luận mà chỉ coi đó là một cách lý giải, giải mã như một giả thiết mà thôi.
Điểm mạnh của TTH là sau nhiều năm giảng dạy và công tác tại khoa Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật của Đại học Mỹ thuật Việt Nam đã phát hiện ra những yếu tố phi Hoa, giải Hoa trong mỹ thuật cổ, rút ra được những nét hồn nhiên thuần Việt trong kho tàng mỹ thuật cổ. Từ đó TTH tìm ra được những nét riêng và đặc sắc thuần Việt của mỹ thuật Đại Việt vào thời Lê - Trịnh.
Thiền Phong Phạm Tuấn (TPPT), cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tranh luận lại với TTH, và cơ sở lý luận của tác giả này là dựa vào những ghi chép về rồng trong sách Nhĩ nhã - một cuốn tự điển cổ của Trung Quốc. Đây là thao tác quen thuộc của các nhà nghiên cứu Việt Nam, khi đứng trước một hiện tượng văn hóa, thường viện dẫn và lấy tài liệu Trung Hoa ra để bình luận. Các nhà nghiên cứu gọi đó là thao tác “Hoa tâm” lấy Trung Hoa là trung tâm, và coi đó là hệ quy chiếu đối với mọi vấn đề. Thao tác này đến nay đã lỗi thời và không còn được ưa chuộng. Việc nghiên cứu so sánh biểu tượng Rồng trong văn hóa Việt Nam với rồng Trung Hoa đã từng là một chuyên khảo đăng trên tạp chí Tri Tân từ trước năm 1945.
Nhà nghiên cứu TTH và THYT thực ra không phải không biết đến điều này. THYT đã tốt nghiệp học vị Thạc sĩ tại Học viện Mỹ thuật Bắc Kinh, và cũng là người dịch và xuất bản một cuốn sách chuyên về rồng phương Trung Quốc. THYT viết: “Dấu ấn Chăm Pa ở Hoa Lư đậm nét tới mức người thợ đã khắc hình rồng trên chiếc sập đá trước Nghi môn ngoại đền vua Đinh đã dám thay những móng vuốt chim ưng sắc nhọn theo kiểu thức Trung Hoa trong mỹ thuật đời Lê bằng những cánh tay thon mềm uyển chuyển như thường thấy trong các điệu múa các vũ nữ Cham Pa”. Cách nghiên cứu của TPPT là đúng, nhưng chưa đủ, vì nếu chỉ lấy Trung Hoa làm trung tâm thì sẽ không thấy được hết sự đa dạng và những nét khác biệt của văn hóa Việt Nam, nhất là nghệ thuật Lê – Trịnh một thời đại đã có ý đồ xây dựng một nền văn hóa Đại Việt độc lập, trong thế phi Hoa, giải Hoa, và đối thoại với Trung Hoa. Ý đồ gây dựng nền văn hóa thuần Việt được thể hiện từ triều đình, phủ chúa đến nhân dân, từ trong Kinh ra ngoài trấn, từ quan lại đến bách tính.
...............
Giải mã hình rồng có đôi tay phụ nữ ở đền vua Đinh
(Theo
Tiền Phong )
TP - Những con rồng có bàn tay phụ nữ ở đền vua Đinh là trường hợp hy hữu, không nói là có một không hai. Từ những ẩn ngữ được các nhà chạm khắc dân gian tạo tác nên, chúng ta lại có dịp soi chiếu lại lịch sử về các vị vua tiền triều.
Sập đá chạm rồng trước bái đường đền vua Đinh
Phát hiện mới này đang gây xôn xao giới nghiên cứu. Sau đây là bài viết của nhà nghiên cứu mỹ thuật Trang Thanh Hiền (Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội) kiến giải biểu tượng rồng có đôi tay phụ nữ này.
Như chúng ta biết triều đại nhà Đinh, Tiền Lê chỉ tồn tại ngắn ngủi trong lịch sử có vỏn vẹn 42 năm, tuy nhiên đây lại là triều đại có rất nhiều biến cố, thậm chí cả những nghi án cung đình, mà hiện nay các nhà sử học vẫn còn chưa thống nhất quan điểm.
Đây cũng là triều đại hiếm hoi trong lịch sử Việt Nam mà một bà hoàng đã làm hậu hai ông vua, Đinh Tiên Hoàng và Lê Hoàn. Chính bộ ba này đã tạo nên những mắt xích quan trọng trong một giai đoạn lịch sử hào hùng của nhà nước phong kiến tập quyền thống nhất đầu tiên ở nước ta.
Ngoài ra trong lịch sử xây dựng và trung tu đền vua Đinh và vua Lê này, việc thay đổi vị trí thờ tự và đặt tượng của các vị quân vương và bà hoàng Thái hậu Dương Vân Nga đã từng tạo nên những câu chuyện thú vị trên chính các kiến trúc và chạm khắc của khu đền này.
Như hình tượng phượng đã được rút khỏi các chạm khắc đá chân tảng ở đền vua Đinh khi đền này được trùng tu vào thế kỷ XIX, cũng là khi bà Dương Vân Nga đã được tách ra thờ ở đền vua Lê cách đó 500m.
Theo một số nhà nghiên cứu lịch sử, thì trước kia, Đinh Tiên Hoàng và Lê Hoàn đã từng được phối thờ ngồi chung một toà với Dương hậu ở đền vua Đinh hiện nay. Đến thời Hậu Lê, dưới con mắt của các nhà Nho, cho đây là trái đạo nên bỏ đi1.
Theo những điều ghi nhận trên các bia còn được lưu giữ ở đền vua Đinh thì năm Hoằng Định 9 (1608), Bình An Vương Trịnh Tùng cho trùng tu lại đền vua Lê, sau đó năm Hoằng Định 12 (1611), sửa lại tượng và rước hoàng hậu và Lê Hoàn về đền vua Lê cùng với Lê Ngoạ triều. Năm Chính Hoà 17 (1689) trùng tu đền vua Đinh.
Có thể lần trùng tu này đã hoàn thiện những kiến trúc gỗ ở đền vua Đinh và lặp lại giống hệt với các thức kiến trúc đền vua Lê dựng năm 1611 trước đó. Không chỉ điều này, quan sát mô hình kiến trúc cũng như kết cấu của hai đền, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận ra sự giống hệt nhau về kiểu thức bố cục.
Trở lại với những sập đá có chạm hình rồng ở đền vua Đinh, một được đặt trước tam quan ngoại và một được đặt trước bái đường. Vị trí này cũng được lặp lại y hệt ở đền vua Lê nhưng với hai chiếc sập không có chạm.
Như vậy rất có thể hai chiếc sập đá chạm rồng này đã có ở đền Đinh ngày nay trước khi tượng Dương Vân Nga và Lê Hoàn được đưa về thờ trong đền vua Lê.
Điều này cũng có nghĩa chúng thuộc về đền thờ các bậc vua tiền triều và bà Thái hậu Dương Vân Nga trước khi di tích này được tách làm hai nơi. Giả thuyết này có những nhân tố hợp lý, bởi sập rồng vốn là sản phẩm của nền văn hoá phong kiến và là vật biểu tượng cho vua. Do có hai vị vua được phối thờ nên ắt hẳn phải có 2 chiếc sập rồng.
Đây cũng là mấu chốt giải thích cho những đôi tay phụ nữ trên những con rồng mang biểu tượng vua này. Phải chăng vai trò lịch sử của bà Dương Vân Nga đã được thể hiện ra rất rõ ở đây.
Toàn cảnh sập đá trước bái đường đền vua Đinh
Xét trên phong cách tạo hình, những chiếc sập này tuy có nhiều điểm tương đồng, nhưng cũng không ít những dị biệt. Cùng là con rồng cuộn khúc trong một đồ án gần vuông, biểu tượng cho sự khát khao về quyền lực tập trung và sự hài hoà giữa vương quyền với thần quyền.
Con rồng ở sập ngoài có ba tay đầy chất nữ tính và một chân. Có thể chiếc sập này có niên đại sớm hơn bởi các nét chạm khắc ít nhiều mềm mại uyển chuyển hơn.
Con rồng ở sập trong cũng có ba tay và một chân nhưng những cái tay lại có phần nhỏ nhắn hơn chiếc sập kể trên. Một vài hình ảnh rồng, thú, chạm ở mặt tiền cảnh của sập này cũng cho thấy phong cách thuộc niên đại muộn hơn.
Trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam, người ta có thể bắt gặp vô số những hình tượng tiên cưỡi rồng, nắm râu, nắm bờm rồng trên các chạm khắc đá, gỗ ở đình làng, nhưng trường hợp những con rồng có bàn tay phụ nữ như thế này lại là trường hợp hy hữu, không nói là đặc biệt chỉ có ở đền vua Đinh.
Lý giải về điều này một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là do sự ảnh của văn hoá Chăm trong việc nhân cách hoá hình tượng nghệ thuật. Tuy nhiên chúng tôi lại cho rằng không phải ngẫu nhiên mà ảnh hưởng của Chăm lại hiện diện ở đây mà không có ý nghĩa.
Bởi lẽ trên chiếc sập đá đặt trước đền thờ các vị vua tiền triều khi đưa những mô típ này vào ắt phải có những dụng ý nhất định. Vậy phải chăng với những chiếc tay rồng trên hai chiếc sập này phải có những cách giải thích khác?
Tượng Thái Hậu Dương Vân Nga được thờ ở đền vua Lê
Và cách giải thích đơn giản nhất đồng thời cũng tương đồng với việc phối thờ chung hai ông vua và một bà hoàng vào cùng một khu đền, thì những đôi tay rất nữ tính này của con rồng chính là ẩn ngữ để nói về một bà vương hậu lấy hai đời vua, mà giữ yên xã tắc.
Quan sát kỹ hơn ta còn phát hiện ra có nhiều điểm thú vị, như đôi tay ở phía thân được đặt song song nhau, một tay nắm sừng, một nắm xoắn hai búi bờm rồng lại với nhau, như thể sự hậu thuẫn của bà Thái Hậu sau lưng hai ông vua để điều hoà mối cương thường của đất nước. Đó cũng là sự ghi nhận của thái độ lịch sử với vai trò của Hoàng Thái Hậu Dương Vân Nga “một vai gánh vác cả đôi sơn hà” bằng một hình tượng nghệ thuật có phần ý tứ.
Ngoài ra trên cả hai bộ sập này, người ta còn nhìn thấy một bàn tay khác đang vuốt một chiếc râu rồng mà cùng đôi với nó lẽ ra là một bàn tay thì lại là một cái chân với đầy đủ năm móng vuốt theo đúng qui cách tượng trưng cho quyền lực của vua.
Lý giải điều này sẽ ít nhiều khó khăn, bởi theo lẽ thông thường, khi nhân cách hoá con vật, người ta thường tạo nên sự đăng đối, tức nếu là tay sẽ là hai đôi tay, hay hai đôi chân, trong khi những hình ảnh nhìn thấy ở đây lại hoàn toàn thiếu đi tính cân bằng đó.
Phải chăng chiếc tay vuốt râu rồng được đặt ở một vị trí rất khiêm tốn trên hai chiếc sập này còn mang một ẩn ý khác ứng với truyền thuyết về việc bà hoàng hậu Dương Vân Nga đã từng lấy Ngô Xương Văn (con trai của Ngô Quyền) và sinh ra Ngô Nhật Khánh trước khi làm vợ của Đinh Tiên Hoàng.
Mặc dù xung quanh câu chuyện này còn có rất nhiều nghi vấn, nhưng khi làm hai chiếc sập đá này, dân gian có thể đã cố tình đưa chúng vào như thể một sự ngẫu nhiên nhưng lại mang những hàm nghĩa rất rõ ràng về lịch sử.
Gần đây, hoạ sĩ Trần Hậu Yên Thế có phát hiện ra hình tượng rồng có đôi tay vũ nữ trên hai chiếc sập đá đền thờ vua Đinh ở cố đô Hoa Lư, Gia Viễn, Ninh Bình. Bản dập của những chiếc sập này hiện đang được triển lãm tại Trung tâm Việt Art centre (từ ngày 3-12/4).
0 nhận xét: on "DẤU ẤN TẠO HÌNH CHĂM PA"
Đăng nhận xét