Hiển thị các bài đăng có nhãn MỸ THUẬT TRONG NƯỚC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn MỸ THUẬT TRONG NƯỚC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

ĐỒ SỨ BLEU DE HUE TRONG SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN



ĐỒ SỨ BLEU DE HUE TRONG SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN

PHÍ NGỌC TUYẾN (*)

Vương Hồng Sển (1902 – 1996) là một nhà nghiên cứu văn hóa đồng thời là nhà sưu tập cổ vật nổi tiếng ở miền Nam. Suốt cuộc đời, ông đã say mê tìm hiểu và sưu tập được hàng trăm món cổ vật qúy giá gồm nhiều chất liệu khác nhau như gốm, đá, gỗ, đồng, sừng, ngà, sơn mài, vải, giấy… Trong đó, số lượng nhiều nhất, có giá trị hơn cả là đồ gốm của Trung quốc, Việt nam, Cam-pu-chia, Thái lan, Nhật, Pháp… Trong sưu tập gốm sứ của ông, chúng ta dễ dàng nhận ra các loại đồ gốm men trắng hoa lam thế kỷ XVIII được sản xuất tại Trung quốc hoặc do các nước đặt hàng Trung quốc làm với những kiểu dáng, hoa văn trang trí khác biệt, trong ấy có nhiều loại hình do các chúaViệt nam đặt hàng.

Trước khi giới thiệu về một số cổ vật gốm sứ men lam thế kỷ XVIII có ghi chữ: “Nội phủ…” và “Khánh xuân …” được làm tại Trung quốc theo Việt Nam đặt hàng trong sưu tập của Vương Hồng sển, chúng tôi xin được phép sơ lược qua vài nét về chủ nhân của nó với tấm lòng kính trọng và ngưỡng mộ về một con người đầy tài hoa, phóng túng.

Vương Hồng Sển sinh năm 1902 tại tỉnh Sóc trăng (miền tây Nam bộ) trong một gia đình làm nghề kim hoàn. Lớn lên, ông theo học tại trường Chsseloup Laubat Saigon (1919 – 1923) nay là trường Trung học phổ thông Lê Qúy Đôn. Sau khi thôi học, Oâng làm nhiều công việc ở nhiều nơi khác nhau : Thư ký trường máy ; Ký lục – phát lương (Sa đéc) ; Thư ký Sở Điền địa (Sóc trăng) ; Tòa Bố chính (Cần thơ) ; Dinh Thống đốc Nam kỳ (sài Gòn) ; Quản thủ Viện bảo tàng Quốc gia tại Sài gòn (1948 – 1964).

Trong những năm làm việc cho Nhà nước thuộc địa Pháp và chính quyền Sài gòn trước đây, Vương Hồng Sển đã bỏ nhiều công sức, chuyên tâm chăm lo nghiên cứu, sưu tầm cổ vật, nghiên cứu văn hóa, phong tục tập quán của miền Nam, tham gia hướng dẫn và giảng dạy đại học. Khi về hưu, ông tập trung viết sách, hồi ký và nghiên cứu sưu tập cổ vật của mình. Oâng cũng góp phần đáng kể trong việc xác định niên đại của một số chủng loại gốm (đặc biệt các loại gốm do Trung quốc sản xuất) và hướng dẫn kỹ năng ban đầu cho người thích sưu tập cổ vật. Nhờ sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình cùng những tác phẩm nghiên cứu của mình, lớp học trò của ông ngày nay có khá nhiều người thành đạt và nổi tiếng trên lĩnh vực sưu tầm và nghiên cứu cổ vật ở trong và ngoài nước. Nhiều công trình nghiên cứu của ông được các nhà chuyên môn đánh giá cao. Oâng đã xuất bản được 15 đầu sách có giá trị như : 50 năm mê hát (1968) ; Thú chơi cổ ngoạn (1971) ; Sài Gòn năm xưa (tái bản lần thứ 4 vào năm 1994) ; Khảo về đồ sứ cổ Trung hoa (1971,1972) ; Khảo về đồ sứ men lam Huế (1993,1994) …. Cuối đời, với lòng mong muốn sưu tập cổ vật của mình được bảo tồn lâu dài, trải qua những năm tháng gian khổ, đấu tranh với chính bản thân mình và gia đình, với bệnh tật hiểm nghèo và vượt lên tất cả, ôâng đã quyết định lập di chúc hiến tặng toàn bộ cổ vật và nhiều sách qúy hiếm cho Nhà nước.

Sau khi ông qua đời, theo quyết định của Uûy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, toàn bộ 815 trong tổng số 849 cổ vật đã được đưa về bảo quản và nghiên cứu tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh. Là một thành viên trong qúa trình tiếp nhận bộ sưu tập cổ vật trên từ gia đình cố học giả Vương Hồng Sển theo di chúc, chúng tôi đã có một số thời gian nhất định để phân loại, sắp xếp, thống kê, đo vẽ, chụp ảnh, đối chiếu với những công trình nghiên cứu và sổ tay ghi chép cổ vật của ông. Suốt qúa trình ấy, những cổ ngoạn trong bộ sưu tập này như có sức hút kỳ lạ chúng tôi. Mỗi chiếc đĩa, tô, chén, bát, chậu, bình, ấm trà… đều là một tác phẩm nghệ thuật, là thời khắc lịch sử…

Trong sưu tập gốm sứ của cố học giả Vương Hồng Sển, có một số hiện vật thuộc loại gốm men trắng hoa lam được sản xuất tại Trung quốc do Việt nam đặt làm vào thế kỷ XVIII. Những sản phẩm này có kiểu dáng, hoa văn trang trí độc đáo và thường ghi một số chữ Hán : “Nội phủ thị trung”, “Nội phủ thị đông”, Nội phủ thị nam”, “Nội phủ thị bắc”, “Nội phủ thị đoài”, “Nội phủ thị hữu” và “Khánh xuân thị tả” (trong bài viết, chúng tôi gọi tắt là:”Nội phủ…” và “Khánh xuân…”). Những hiện vật kể trên cùng với hơn 200 hiện vật khác thuộc sưu tập Vương Hồng Sển đã được trưng bày tại một số nơi như Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Hà nội… thu hút đông đảo công chúng, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

Để người quan tâm đến bộ sưu tập Vương Hồng Sển có những thông tin cụ thể hơn, trong phạm vi bài này, chúng tôi xin giới thiệu về một sưu tập nhỏ trong bộ sưu tập của ông, đó là sưu tập đồ gốm hoa lam “Nội phủ…” và “Khánh xuân…”.
1. Hiện vật trong sưu tập gốm sứ :

Đồ gốm sứ Việt nam đặt Trung quốc sản xuất ở thế kỷ XVIII (thuộc bộ sưu tập Vương Hồng Sển) lưu tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh đều có ghi “Nội phủ…” hoặc “Khánh xuân…” tất cả có 19 món, phân loại như sau :

Nội phủ thị trung : 2 Nội phủ thị bắc : 2

Nội phủ thị nam : 2 Nội phủ thị hữu : 7

Nội phủ thị đông : 2 Khánh Xuân : 4

Để bạn đọc có một cái nhìn bao quát về loại gốm này, chúng tôi xin giới thiệu một số hiện vật cụ thể :

1.1 Đồ gốm sứ ghi “Nội phủ…”

- Tô “Nội phủ thị trung” (mang ký hiệu BTLS.15124) có đường kính miệng 19cm, cao 7cm. Chiếc tô này ông Vương Hồng Sển mua năm 1962 tại Sài Gòn. Bên trong lòng tô vẽ chữ “Thọ” hình tròn ; ngoài tô vẽ rồng 4 móng một con long mã, trên lưng con long mã có một cuốn thư và thanh bảo kiếm. Các nét vẽ trơn tru, khéo léo, chính xác ; men sáng trong ; xương gốm mỏng. Dưới đáy ghi 4 chữ Hán “ Nội phủ thị trung”.

- Tô “Nội phủ thị trung” (BTLS.15123) có đường kính miệng 17cm, cao 6,5cm, mua năm 1966. Da tô trơn, không rạn ; trong lòng vẽ chữ “Thọ” hình tròn; thành ngoài vẽ rồng 4 móng đạp chân lên đụn mây (tản vân) và một con long mã trên lưng chở cuốn thư và kiếm, dưới chân có mây. Hai con vật linh chầu nhật. Dưới đáy tô ghi chữ Hán “Nội phủ thị trung”.

- Đĩa “Nội phủ thị trung” (BTLS.15177) có đường kính miệng 11cm, cao 2,7cm. Trong lòng đĩa vẽ đề tài “lưỡng long chầu nhật”, cảnh hai con rồng đang vờn quanh một qủa cầu lửa, cạnh đó là những đám mây. Bên ngoài đĩa cũng vẽ đề tài trên, nhưng hai con rồng uốn khúc quanh co, tạo thành một vòng xung quanh thành ngoài đĩa. Dưới đáy ghi 4 chữ Hán “Nội phủ thị Trung”.

- Bộ đĩa, chén “Nội phủ thị hữu” (BTLS.15158-15161) là một bộ đĩa chén uống trà có 4 món : đĩa đựng, chén tống, hai chén quân (1) : đĩa đường kính miệng 17,5cm ; chén tống đường kính miệng 7,5cm, cao 4,5cm ; chén quân đường kính miệng 6 cm, cao 3,5cm. Các họa tiết trang trí trong mỗi cái đều vẽ hình rồng và phượng chầu chữ “Thọ” hình tròn. Con rồng được thể hiện 5 móng rất rõ ràng. Nghiên cứu về bộ trà này, Vương Hồng Sển cho rằng, đây là bộ chén trà ngự dụng do Chúa và Tuyên phi sử dụng, về sau những bộ tương tự như vậy nhường lại cho vua Lê và Hoàng hậu. Bộ chén uống trà chỉ có 2 chén quân cho 2 người là đúng nghi lễ theo cách “đối ẩm”, “song ẩm”? (2).

- Tô lớn “Nội phủ thị hữu” (BTLS.15128) là một chiếc tô khá lớn. Đường kính miệng 29,5cm, cao 8cm. Chiếc tô này ông Vương Hồng Sển mua ngày 1/1/1965 tại Sài Gòn. Tô đã bị rạn, nứt đôi chỗ. Cả hai mặt trong và ngoài vẽ rồng và phượng chầu nhật (mặt trời). Rồng 5 móng đang bay lượn ẩn hiện trong những cụm mây. Dưới đáy tô ghi chữ Hán “ Nội phủ thị Hữu”. Kích thước của tô khá lớn. Do vậy, nhiều người không đồng ý với tên gọi là “tô”. Ông Vương Hồng Sển gọi nó là “Quán tẩy” (chậu rửa mặt).

- Đĩa “Nội phủ thị đông” (BTLS.15483) có đường kính miệng 19cm, cao 2,4cm mua ngày 30/6/1960. Chiếc đĩa vẽ cả mặt trong và thành ngoài. Đề tài trang trí được thể hiện là hình ảnh của hai con lân đang vờn nhau giữa đám mây sòi. Nét vẽ điêu luyện, giúp người xem cảm tưởng như từng đường gân, bắp thịt của con lân cuộn lên, cảnh sống động, vui tươi. Dưới đáy ghi chữ Hán “Nội phủ thị đông”. Nhiều người nghiên cứu loại hình này, hầu hết cho rằng những đồ dùng ghi “Nội phủ thị đông” được dùng trong Đông cung của phủ Chúa, mà Đông cung là nơi ở của Thái tử, người sẽ thay thế ngôi vị sau này.

- Đĩa “Nội phủ thị đông” (BTLS.15484) có đường kính miệng 10,5cm, cao 2,4cm được vẽ đề tài “Mai – điểu” (chim và hoa mai). Trên gốc mai già hoa nở kín, có con chim đang đậu và nhòm ngó bắt sâu. Hai câu thơ chữ Hán rõ nét, sắc sảo :

“Vị kinh tam bạch hậu

Tiên chiếm bách hoa khôi”

(ý thơ ca ngợi vẻ đẹp của hoa mai trước trăm hoa)

- Chén “Nội phủ thị bắc” (BTLS.15119) có đường kính 9,5cm, cao 4,2cm. Ông Vương Hồng Sển mua ngày 5/10/1960. Trong lòng chén để men trắng, các đề tài trang trí được thể hiện ở thành ngoài chén : phong cảnh gồm 2 tòa lâu đài, phía trước có 2 cây tùng ; hai người cưỡi ngựa, theo sau có 2 tiểu đồng, tất cả đều từ phía lâu đài đi ra. Phía trước đoàn người, ngựa có một cây cầu bắc qua sông, bên kia sông xa xa là một dãy núi. Bên bờ sông, cạnh chiếc lều nhỏ, một ông già đang cất vó. Câu thơ chữ Hán ghi :

“Hoa cảng quan ngư

Giang sơn trình tú lệ

Hương thấn mã đề khinh”

(ý thơ ca ngợi vẻ đẹp của non sông đất nước)

- Đĩa “Nội phủ thị nam” (BTLS.15129) có đường kính miệng 12cm, cao 2,8cm. Trong lòng đĩa vẽ 2 con cua, 2 bông sen, 2 lá sen và một nhánh cỏ lau vươn lên cao. Thành ngoài vẽ 1 con cua, 1 lá sen và 2 nhánh cỏ lau vươn cao hơn lá sen. Đáy ghi chữ Hán : “Nội phủ Thị Nam”. Trong lòng đĩa cũng có câu thơ :

“Thanh hương trần bất nhiễm

Hoạt động y vô cùng”

(ý thơ ca ngợi vẻ đẹp và hương thơm của hoa sen)

Những đồ sứ men lam có vẽ cua, sen và đề hiệu “Nội phủ thị nam”, có phải là những đồ vật dùng trong Nội phủ mà vị trí của nó là nhà bếp của Chúa?

1.2 Đồ gốm sứ ghi “Khánh Xuân…”

Đồ gốm sứ men trắng vẽ lam có hiệu “Khánh xuân…” đặt làm tại Trung quốc vào thế kỷ XVIII cũng tương đồng về thời gian với các loại hiệu “Nội phủ” nhưng muộn hơn một chút. Sản phẩm gốm hiệu Khánh Xuân xinh xắn hơn bởi dáng, hoa văn, nét vẽ do bàn tay các nghệ sĩ tài ba. Trong sưu tập gốm sứ Vương Hồng Sển đang bảo quản và gìn giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh có 4 món. Các đề tài trang trí thường là rồng, sư tử, lân, chữ thọ, khánh… Chúng tôi xin giới thiệu 2 hiện vật tiêu biểu sau :

- Đĩa “Khánh Xuân thị tả” (BTLS.15139) có đường kính miệng 26,5cm, cao 3,8cm. Ông Vương Hồng Sển mua ngày 3/6/1959 do một người mang từ Huế vào Sài Gòn bán . Chiếc đĩa này khá lớn, nguyên vẹn. Trong lòng đĩa vẽ hình rồng 5 móng ẩn hiện trong mây và chữ “Thọ” ỡ giữa. Mặt sau của đĩa vẽ đề tài thủy ba rợn sóng. Trên sóng nước cuồn cuộn có một con long mã lớn, đầu có gạc có sừng ; phía sau long mã lớn có hai long mã khác nhỏ hơn đang chạy theo con lớn. Dưới đáy ghi chữ Hán “Khánh Xuân thị tả”.

Khi nghiên cứu hiện vật này, ông Vương Hồng Sển cho rằng, Trịnh Sâm khi đặt làm những sản phẩm này đều có dụng ý về chính trị, âm mưu thoán quyền Vua Lê. Trịnh Sâm coi mình có quyền thống soái (rồng 5 móng). Hàm ý của đề tài long mã lớn và 2 long mã nhỏ chỉ Chúa Trịnh Sâm và hai con trai, ngầm hiểu ý là Thái sư, Thiếu sư trong triều ? (4).

- Chén tống “Khánh Xuân thị ta”û (BTLS – 15118) có đường kính miệng 7cm, cao 5cm. Dáng của chén thanh thoát, vẽ màu lam hơi đậm. Đề tài trang trí là rồng, sóng nước, mây. Một con rồng lớn có 5 móng đang bay trên không trung có những làn mây. Một con rồng khác nhỏ hơn đang từ dưới biển vạch sóng trồi lên chào đón rồng lớn (không rõ mấy móng vì thân rồng còn ở dưới nước). Dưới đáy chén có chữ Hán “Khánh xuân Thị tả”.
2. Một vài nhận xét

- Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu một số hiện vật gốm sứ hiệu “Nội phủ…” và “Khánh xuân…” trong tổng số 19 món đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt nam – TP.HCM. So sánh, đối chiếu giữa số lượng hiện vật trên thực tế với số lượng mà ông Vương Hồng Sển đã viết trong sách “Khảo về đồ sứ men lam Huế” (tập thượng), chúng tôi thấy có sự chênh lệch : có 31 món(5). Để tiện theo dõi, chúng tôi lập bảng sau :


TT

HIỆU ĐỀ

SỐ LƯỢNG HIỆN VẬT TRONG SÁCH

SỐ LƯỢNG HIỆN VẬT TẠI BẢO TÀNG


1

2

3

4

5

6

7 Nội phủ thị trung


Nội phủ thị hữu

Nội phủ thị đông

Nội phủ thị đoài

Nội phủ thị bắc

Nội phủ thị nam

Khánh Xuân thị tả

07

07

04

03

03

01

06

31 hiện vật

02

07

02

0

02

02

04

19 hiện vật



Sở dĩ có sự chênh lệch về số lượng trên đây, chúng tôi cho rằng, cuốn sách mà ông Vương Hồng Sển đã viết và hoàn thành vào năm 1972 theo lời tựa ghi ở đầu sách thì “…cuốn bản thảo cứ nằm trơ trên bàn”, do đó, qua mấy chục năm, số lượng hiện vật có sự thay đổi : đổi món này, lấy món kia của những người chơi cổ ngoạn ; bán món này, mua món khác thích hơn. Cuối đời, số cổ vật của ông thường bị con trai và con dâu lấy trộm đem bán như trong cuốn sổ tay của ông đã ghi rõ (5). Do vậy, chúng tôi thấy rằng, một số hiện vật có ghi chép, mô tả trong sách nhưng hiện tại không có, hoặc hiện vật có nhưng lại không ghi trong sách.

- Về niên đại của những loại đồ gốm này, Vương Hồng Sển và một số nhà nghiên cứu khác như : Trần Đình Sơn, Phạm Hy Tùng, Trần Đức Anh Sơn… đều cho rằng đã được làm vào thế kỷ XVIII tại Trung quốc. Niên đại này còn được khẳng định thêm bởi Hội đồng Giám định cấp Nhà nước vào đầu năm 1997 do Giáo sư Hà Văn Tấn làm Chủ tịch.

- Việc xác định chủ nhân của những đồ gốm kể trên là một việc làm khó khăn. Theo sử liệu về tình hình xã hội Việt nam thế kỷ XVIII, chúng tôi đồng ý với Vương Hồng Sển và một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là những sản phẩm do các chúa Nguyễn đặt làm tại Trung quốc để làm đồ dùng trong phủ chúa. Nhưng nói món này dùng ở chỗ này, món khác dùng ở chỗ kia… cũng cần cân nhắc thấu đáo thêm.

- Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt nam suốt hơn hai trăm năm, họ Trịnh đã mượn tiếng phò Lê để dần dần lấn lướt, tiếm quyền. Ban đầu, nhìn bên ngoài, có lẽ các chúa chưa dám đoạt ngôi vua nên đã lập ra “phủ” ; không dám xưng “cung”, xưng “điện” nhưng thực ra, mọi quyền hành hầu như đã thâu tóm hết về tay. Các chúa đã tước hết mọi thực quyền của vua Lê, quy định chế độ bổng lộc của nhà vua…Từ chỗ thành lập 3 phiên (Binh , Hộ, Thủy sư) đến chỗ thành lập 6 phiên ( Lại, Hộ, Lễ, Binh , Hình, Công) và chịu trách nhiệm cai trị đất nước. Khi mọi quyền lực chính trị, kinh tế, quân sự ở xứ Đàng Ngoài đều tập trung vào phủ chúa, họ Trịnh đã ra sức tác oai, tác quái, sống xa xỉ trên mồ hôi nước mắt của nhân dân. “Ruộng đất rơi hết vào nhà hào phú, còn dân nghèo thì không có một miếng đất cắm dùi”(7). Nội chiến liên miên, thuế khóa nặng nề, quan lại nhũng nhiễu làm cho đời sống nhân dân ngày càng sa sút nghiêm trọng.

Sau 248 năm với 11 đời chúa trị vì, năm 1786 với việc vua Lê Chiêu Thống ra lệnh đốt hoàn toàn phủ chúa đã chấm dứt vai trò của thế lực họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Từ đây, phủ chúa đã đi vào dĩ vãng. Ngày nay, tuy không còn biết phủ chúa hình dáng, kiến trúc, vị trí các khu vực trong phủ ra sao… nhưng qua những món đồ sứ ghi bằng chữ Hán và các biểu tượng hoa văn mà các chúa đã đặt làm ở Trung quốc như : “Nội phủ thị trung”, “Nội phủ thị đông”, “Nội phủ thị hữu”, “Nội phủ thị nam”, “Nội phủ thị bắc”, “Nội phủ thị đoài” và “Khánh xuân thị tả”û đã giúp chúng ta hình dung được một phần sơ đồ cùng lối sống xa hoa ở nơi phủ chúa.

Tuy chưa đồng ý với nhau nhiều vấn đề khi nghiên cứu loại gốm này, nhiều tác giả như Vương Hồng Sển, Trần Đình Sơn, Trần Đức Anh Sơn, Phạm Hy Tùng… (8), Phạm Hữu Công (9) đã có những phác họa một sơ đồ đơn giản về Nội phủ theo kiểu đăng đối như sau:
Nội phủ

thị bắc

Nội phủ Nội phủ Nội phủ Khánh xuân Nội phủ

thị tây (Đoài) thị hữu thị trung thị tả thị đông

Nội phủ

thị nam

Theo sơ đồ trên, Vương Hồng Sển ; Trần Đình Sơn… cho rằng, những mô típ, hình thức trang trí, đồ dùng nơi phủ chúa có những nét riêng nhất định:

Nội phủ thị trung (tập trung chính điện) là nơi sinh hoạt của chúa, đề án trang trí là rồng 5 móng và mây.

Nội phủ thị hữu (điện bên phải) là nơi dành cho Chánh phi, các đề án trang trí thường là rồng và phượng.

Nội phủ thị đông (điện phía đông) là nơi ở của các Hoàng tử, các đề án trang trí thường là lân, chim, hoa, mây.

Nội phủ thị nam (điện phía Nam) là nơi trù viện (bếp), thường được trang trí các đề án có hoa sen, cua, vịt…

Nội phủ thị đoài (điện phía Tây) dùng để trang trí phong cảnh.

Nội phủ thị bắc (điện phía Bắc) là nơi ở của các phi tần, trang trí bằng các đề án hoa cúc.

Khánh xuân thị tả (điện mừng xuân) thường dùng các đề án trang trí như rồng và 2 con lân…

Việc đoán định và đặt vị trí cho từng loại kể trên, tôi cho là có cơ sở. Nhưng trên thực tế, trong một vài sưu tập tư nhân có những món đồ gốm với đặc diểm về dáng, men ,đề tài trang trí, nét vẽ… thuộc về những loại kể trên, nhưng chỉ ghi hai chữ “Nội phủ” hoặc không ghi chữ nào?

- Những sản phẩm gốm sứ mang hiệu “Nội phủ…” và “Khánh xuân…” được làm vào thế kỷ XVIII, lúc đó là những đồ dùng cao cấp xa xỉ nơi phủ chúa. Những vật dụng này đã được các chúa Đàng Ngoài đặt làm vào đúng thời kỳ thịnh đạt huy hoàng của các lò gốm sứ Trung quốc. Mỗi sản phẩm là sự kết hợp tài tình của các nghệ nhân bởi những bộ óc sáng tạo và bàn tay khéo léo. Gần ba trăm năm qua đi, những sản phẩm độc đáo ấy hiện nay còn quá ít (kể cả trong hai bảo tàng lớn của Việt Nam là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Hà nội) và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh. Một phần (có lẽ không nhỏ), những cổ vật quý giá này hiện vẫn nằm rải rác trong dân và một số nhà sưu tập tư nhân ở trong và ngoài nước. Những cổ vật mà chúng tôi giới thiệu trong bài này cũng là một phần rất nhỏ (cả về số lượng và loại hình), nhưng đã góp phần quan trọng cho việc vẽ ra một mảng màu cho bức tranh gốm Việt Nam trong lịch sử.

- Cái đẹp của gốm “Nội phủ…” và “Khánh xuân…” trong sưu tập này, trước hết phải nói về dáng. Việc tạo dáng cho gốm loại này có xu hướng nhỏ, gọn, xinh xắn. 19 cổ vật kể trên không có cái nào to lớn, cồng kềnh. Hơn nữa, dáng của gốm không có những chi tiết phụ hay đắp nổi cầu kỳ, rườm rà. Gốm được tạo dáng đơn giản, các góc không gãy đột ngột mà mở rộng và lượn vòng, cung độ lớn. Nhìn phong cách tạo dáng của gốm sứ trong sưu tập của Vương Hồng Sển, thoạt nhìn ta thấy cảm giác gần gũi với gốm hoa lam thời Lê. Tuy nhiên, có thể nói, gốm loại này về kiểu dáng có chứa đựng những nét tinh tế của dáng gốm Trung hoa và Việt : hài hòa, giản đơn…

- Sau yếu tố tạo dáng phải kể đến các hoạ tiết trang trí trên gốm “Nội phủ…” và “Khánh xuân…”. Các đề tài trang trí thường là rồng, phượng, lân, vịt, chim, mây, sóng nước, hoa mai, hoa sen… Đặc biệt, hình tượng rồng, phượng, lân… có nhiều trong các cổ vật trên đây. Con rồng có thân hình mềm mại, ẩn hiện trong mây trời. Hình dáng, râu tóc, mặt mũi, nanh vuốt và đuôi rồng rất giống với rồng trang trí ở triều Nguyễn sau này, khác hẳn với rồng Trung quốc. Rồng trong sưu tập gốm sứ này có 2 loại 4 móng và 5 móng – biểu tượng của vương quyền.

- Nghệ thuật trang trí được sử dụng bằng cách vẽ trực tiếp trên xương gốm. Đây là cách vẽ rất khó về bố cục, đường nét. Một nét vẽ xuống là vĩnh viễn không bao giờ thu lại được. Do vậy, đòi hỏi nghệ nhân phải có tay nghề cao, điêu luyện và tất nhiên sản phẩm ra đời không cái nào giống cái nào. Đó mới là điều độc đáo, có giá trị cao trong nghệ thuật. Các nét vẽ sau khi nung chảy, chỗ thì mờ nhạt, chỗ thì đậm nét… làm cho gốm cứ lung linh, huyền ảo.

- Sản phẩm gốm “Nội phủ…”û và “Khánh xuân…” trong sưu tập Vương Hồng Sển tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh cũng như ở các bảo tàng khác và các nhà sưu tập đều thuộc những cổ vật qúy giá bởi giá trị lịch sử, văn hoá và nghệ thuật của nó. Những sản phẩm này có lẽ chỉ được đặt hàng vài lần và có số lượng không nhiều, kể cả trong các sách nghiên cứu gốm của Trung quốc cũng không thấy đề cập đến gốm “Nội phủ…”û và “Khánh xuân…”(9)ï. Và có lẽ cũng vì thế mà các loại đồ gốm nói trên đến nay đã trở nên rất hiếm hoi. Trước thực tế đó, việc sưu tầm, giữ gìn, bảo quản các hiện vật thuộc loại gốm “Nội phủ…” và “Khánh Xuân…” lại càng cần thiết. Có được sưu tập hiếm hoi đồ gốm thuộc loại trên đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt nam – TP.HCM, chúng ta thêm trân trọng cố học giả Vương Hồng Sển – người đã dành nhiều thời gian và công sức cho việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc.

Chú thích:

(1) : Khi uống trà, trà được rót từ bình trà vào chén tống, sau đó từ chén tống lại rót vào các chén quân – chén quân nhỏ hơn chén tống.

(2) : Vương Hồng Sển – Khảo về đồ sứ men lam Huế – Quyển thượng – NXB TP. Hồ Chí Minh – TP. Hồ Chí Minh, 1993, trang 134.

(3) : Vương Hồng Sển – Đã dẫn, trang 142.

(4) : Vương Hồng Sển – Đã dẫn, trang 144,145.

(5) : Gồm có 14 cuốn sổ ghi chép cổ vật, hiện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. Hồ Chí Minh đang lưu.

(6) : Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập I. NXB Giáo dục. H. 2000. Trang 395.

(7) Trong cuốn : “Đồ sứ men lam Huế” , những trao đổi học thuật, NXB Thuận hóa, Huế, 1997, tr. 181,182 ; 202,203 ; 232,233 ; 254,258.

(8) : Phạm Hữu Công – Thông báo khoa học số 2 – Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.137.

(9) Trong bài viết, cúng tôi có sử dụng “Đề cương trưng bày” và “Tóm tắt thuyết minh sưu tập Vương Hồng Sển” của Bảo tàng LSVN – TP. HCM.

(*) Nghiên cứu sinh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
read more...

Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015

Tranh khắc gỗ



Tranh khắc gỗ
Lê Bá Thanh
Tranh khắc gỗ còn gọi là khắc mộc bản. Kỹ thuật in nổi, về nguyên tắc rất đơn giản, là một trong những phương pháp lâu đời nhất của loài người để giữ lại những ý tưởng về hình ảnh. Trong các kỹ thuật in nổi khắc gỗ là phương pháp in lâu đời nhất. Người Babylon và người Ai Cập đã từng in con dấu làm bằng gỗ khắc nổi trên đất sét mềm, tại Trung Quốc ngay từ thế kỷ IV người ta đã biết dùng mực quét lên những tảng đá có khắc chữ và chà giấy lên để in ra.

Trong thời nhà Đường (618 – 907) tranh vẽ và chữ kèm theo (trên cùng một bản in) đã được in ra bằng các bản in gỗ, sách in bằng bản khắc gỗ cũng đã được biết đến từ thế kỷ IX, trong khi loại này ở châu Âu mãi đến thế kỷ XV mới xuất hiện. Quyển sách lâu đời nhất in bằng bản khắc gỗ được biết đến bao gồm sáu trang với các bản khắc gỗ nhỏ cho nửa trang một là quyển Kinh Kim Cương (tiếng Anh Diamond Sutra) ra đời vào năm 868.

Từ rất xa xưa người Việt ta đã sử dụng những bản gỗ để khắc bản in dùng vào việc in kinh sách của nhà chùa hay triều đình ở những bản in kinh Phật, ngoài phần kinh nghĩa đôi khi còn có in kèm những hình vẽ giản đơn.






Bản khắc kinh Phật


Sau này khắc gỗ phát triển hơn và được ưa dùng để khắc tranh thờ, tranh treo chơi với hy vọng phồn thực như tranh Đông Hồ. Một bức tranh Đông Hồ có năm màu thì thường sử dụng sáu bản in gồm năm bản màu và một bản nét. Bản nét thường được in sau cùng. Gỗ được sử dụng để làm bản in thường là những loại gỗ mềm và dai thớ, như gỗ thị, gỗ lòng mực. Ván in được bào nhẵn và phẳng, tùy theo yêu cầu của kích thước tranh in mà chọn ván in to hay nhỏ. Trước hết họa sĩ phải chuyển lên mặt ván in những hình vẽ (ngược với phác thảo) sau đó dùng dao và đục máng cắt bỏ những phần phải có màu trắng trên tranh. Tiếp theo, bôi mực vào bề mặt ván in rồi đặt lên bề mặt này một tờ giấy, họa sĩ dùng lô, giẻ hoặc tay ấn vào phía sau tờ giấy, khi nhấc tờ giấy khỏi mặt ván in họa sĩ đã có được một hình ảnh ngược với hình vẽ trên mặt ván in nhưng lại là hình vẽ thuận với phác thảo.



















Một số họa sĩ không dừng lại ở kỹ thuật cơ bản đó mà còn rạch, nạo... bề mặt gỗ bằng những dụng cụ tự chế để tạo nên một bề mặt phong phú về chất. Đôi khi họa sĩ tận dụng ngay những thớ gỗ tự nhiên và với cách này bề mặt tranh sẽ có được những nét quyến rũ nhẹ nhàng, rất tự nhiên. Đặc điểm của tranh khắc gỗ là đậm đà, khỏe khoắn và đơn giản. Tuy nhiên không phải là không thể tạo nên những nét khắc tinh tế.

Tranh khắc gỗ Nhật Bản rất nổi tiếng và được ưa chuộng trên thế giới với những đường nét hết sức tinh tế bên cạnh những mảng đậm và chắc khỏe. Nghệ thuật tranh khắc gỗ Nhật Bản có thể nói là những bài thơ trong sáng trữ tình*.


























Ở Việt Nam ngoài tranh khắc gỗ dân gian, các nghệ sĩ chuyên nghiệp cũng có những tìm tòi cải tiến kỹ thuật và đã đạt được những thành công nhất định.







Họa sĩ Trần Văn Cẩn với bức Gội đầu thể hiện một đường nét khắc gỗ hết sức mềm mại, tinh tế nhưng vẫn ẩn chứa chất khỏe khoắn của người phụ nữ. Mái tóc được ông tập trung diễn đạt vừa tinh tế, lại vừa lung linh như nâng đỡ, phối hợp tài tình làm nổi bật thêm phần tinh tế và mềm mại cho những nét biểu đạt đường cong cơ thể. Màu sắc hài hòa và ấm áp dung dị lạ thường. Qua tranh ông người ta có thể cảm nhận được những nét kế thừa nghệ thuật khắc gỗ truyền thống lại vừa có cái gì đó mới lạ của riêng Trần Văn Cẩn.

Các họa sĩ Nguyễn Tiến Chung, Phạm Văn Đôn, Trần Huy Oánh ... cùng nhiều họa sĩ khác đã đem lại cho diện mạo tranh khắc gỗ Việt Nam những đổi mới giàu sức sống và cực kỳ phong phú.

Để tạo nên một bản in gỗ người ta dùng dao cắt các phần không in ra khỏi một mảnh gỗ đã được bào nhẵn, các phần nổi sau đó được quét màu lên và mang đi in hoặc bằng tay dùng một búa là (tiếng Đức Falzbein) chà lên hay bằng máy in.

















Cách tạo bản khắc gỗ là thông thường gỗ được cắt thành một mảnh dầy từ 2 đến 4 cm có sợi chạy theo chiều của hình (cắt dài). Mảnh gỗ được bào, mài và làm nhẵn cho đến khi bề mặt hoàn toàn phẳng có thể được phủ một lớp sơn nền, thường là một lớp phấn trắng mỏng. Theo thông lệ bản vẽ trước của nghệ sĩ được mang đặt lên lớp phấn này rồi dùng nhiều loại dao cắt theo các đường vẽ trước. Người ta không cắt thẳng đứng mà cắt hai lần, một lần cắt nghiêng từ đường vẽ ra ngoài và một lần nghiêng ngược lại rồi tách dăm bào ra. Trong phương pháp gọi là cắt đường đen này việc tạo hình được tiến hành bằng đường nét đen trên nền trắng.








Sau đấy bản in khắc gỗ đã hoàn chỉnh được phết mực in lên bằng một quả banh tròn tẩm mực to bằng nắm tay hay thường hơn là bằng một con lăn.

In: người ta in bằng cách ép lên bản khắc gỗ một tờ giấy có khả năng hút nước tức là không có pha keo vì thế mà hút mực và đã được làm ẩm một ít (hoặc là ngược lại ép bản gỗ lên giấy). Có thể dùng một trái banh lăn trên tờ giấy hay dùng một cây cọ quét lên để tạo lực cần thiết ép giấy sát vào bản in gỗ. Thông thường nhất là bản in được in bằng máy in sách (máy ép in nổi) có thể ép đều lực lên bản in gỗ và giấy. Sau mỗi lần in phải quét mực lại cho bản in khắc gỗ.

Dụng cụ trang bị cơ bản của một người khắc gỗ bao gồm dao khắc dùng để khắc các đường thẳng và song song, dao trổ dùng để tạo rãnh hình chữ V, cây đục bán nguyệt để cắt bỏ đi những phần lớn không phải in, dao mỏng dùng để khắc các đường viền...

Một số nhà khắc gỗ chỉ sử dụng các cây đục bán nguyệt nhỏ và lớn chứ không dùng đến những dụng cụ như dao nhỏ. Ngày nay người ta cũng sử dụng các dụng cụ hiện đại như máy phay. HAP Grieshaber còn dùng đến cả máy cưa trong các bản khắc gỗ rất lớn của ông.

read more...

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Quảng cáo ở VN thời Pháp thuộc

Quảng cáo ở VN thời Pháp thuộc

(ĐVO) Thông qua những tờ quảng cáo này, người xem sẽ có những khám phá thú vị về đời sống vật chất cũng như tinh thần của tầng lớp thượng lưu Việt Nam cách đây 1 thế kỷ.
Những tờ quảng cáo này được trích từ tạp chí Pháp Extrême-Asie, số 10, xuất bản vào tháng 4/1927 dưới sự bảo trợ của Toàn quyền Đông Dương.

Quảng cáo các mặt hàng thịt tươi sống.

Quảng cáo cho hãng dược phẩm thành lập năm 1920 của nhà hóa dược Louis Sarreau.

"Siêu xe" thời thuộc địa.

Quảng cáo cho khách sạn Cung điện Langbian ở Đà Lạt.

Chiếc ô là vật dụng thể hiện địa vị của người sở hữu và một chiếc ô "hàng hiệu" là mơ ước của nhiều người.

Quảng cáo của Công ty Brossard và Mopin, công ty tài chính lâu đời nhất Đông Dương.

Còn đây là quảng cáo của Tổng công ty tài chính thuộc địa Pháp.

Nước ngọt đóng chai là một đồ uống phổ biến trong xã hội thuộc địa.

Quảng cáo cho trung tâm mua sắm Charner ở Sài Gòn.

Quảng cáo cho xưởng ảnh do ông Khánh Kỳ thành lập năm 1907.

Quảng cáo cho một cửa hàng cổ vật.

Ngân hàng Đông Dương.

Quảng cáo sản phẩm cao su địa phương.
read more...

Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2012

Tranh dân gian Việt Nam



Tranh dân gian Việt Nam
Lê Bá Thanh
Nguồn:  http://doanhnhan360.com/Desktop.aspx/Cuoc-song-360/Giai-tri-360/Tranh_dan_gian_Viet_Nam/


Tôi còn nhớ ngày trước, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán, gia đình nào dù giàu hay nghèo cũng đều mua một vài tấm tranh dân gian màu sắc tươi tắn để dán lên tường nhà cho không khí thêm phần rộn rã, nồng ấm.
Tranh dân gian xuất hiện cách đây từ nhiều thế kỷ, là kho tàng quý giá của nền văn hóa dân tộc Việt. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử cũng như những thăng trầm của đất nước, dòng tranh này vẫn giữ được vẻ vui tươi dí dỏm, sự hiền lành đôn hậu, thể hiện giá trị nhân văn và tinh thần của làng quê Việt Nam.

Một số thể loại tranh dân gian tiêu biểu

Tranh dân gian nổi tiếng với lòng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) tranh Hàng Trống (Hà Nội) tranh Kim Hoàng (Hà Tây), tranh làng Sình (Huế)... mỗi vùng, miền mang đậm một sắc thái và kỹ thuật riêng.
Tranh Đông Hồ ra đời từ khoảng thế kỷ XVIII tại làng Đông Hồ (tỉnh Bắc Ninh), một vùng đất trù phú, nông nghiệp phát triển, đời sống văn hóa cao... tất cả tạo thành cái nôi cho một dòng tranh chân quê đậm đà chất dân tộc. Tranh Đông Hồ gắn liền với các sinh hoạt trong dân gian, không theo một quy luật thấu thị nào, nên được gọi là “quy luật ngây thơ”. Đường nét chọn lọc, thuần khiết, cốt sao rung cảm thẩm mỹ cho người xem hơn là vẽ đúng luật.
Đó cũng là xu hướng vươn tới của hội họa hiện đại. Đề tài phong phú, phản ánh những sinh hoạt trong cuộc sống, xã hội vùng nông thôn Bắc bộ, từ những gì dân dã nhất như hái dừa, đánh ghen... cho tới tranh thờ như Phú Quý, Nhân Nghĩa. Tranh Hàng Trống nhìn chung có phần nổi trội hơn về thể loại tranh thờ, do ảnh hưởng Phật giáo và Đạo giáo, tiêu biểu như Tam hòa Thánh mẫu, Tứ phủ, Ngũ hổ... hay đi sâu vào những bộ Tứ bình về người đẹp (Tố nữ) và cảnh đẹp (Tứ quy). Hình tượng tương đối giản dị nhưng thể hiện khá công phu, sắc thái uy vệ về ý nghĩa. Tranh được in trên giấy xuyến chỉ và sau này là giấy báo khổ rộng. Về màu sắc, tỷ lệ không đúng với công thức chuẩn, chỉ sao cho vật thuận mắt và ưa nhìn, kỹ thuật tranh kết hợp đường nét in đen từ bản khắc gỗ với việc tô màu phẩm bằng tay, cùng bút mềm quệt phẩm nước, tạo những chuyển sắc đậm nhạt tinh tế. Nhờ vậy, tranh Hàng Trống đáp ứng được đòi hỏi của cách mua tranh chốn kinh kỳ.
Tranh Kim Hoàng phát triển từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX, là sản phẩm từ sự hợp nhất của hai làng Kim Bảng và Hoàng Bảng. Tranh Kim Hoàng khắc họa những gì quen thuộc, mộc mạc, đơn sơ của người nông dân, làng quê, cảnh ngày Tết.
Tranh Kim Hòang có nét khác thanh mảnh, tỉ mỉ hơn tranh Đông Hồ còn màu sắc tươi tắn như tranh Hàng Trống. Tranh dùng mực tàu, thạch cao và phấn là chính , in trên giấy hồng điều, tàu vàng. Điểm đặc biệt là những câu thơ Hán tự được viết theo lối chữ thảo. Cả thơ và hình tạo nên một chỉnh thể hài hòa, chặt chẽ cho tranh.
Tranh làng Sình ra đời từ rất lâu đa phần phục vụ cho việc thờ và cúng, chỉ chuyên phụng sự đời sống tâm linh của người Huế. Tranh thờ là tranh của các nhân vật được cung thỉnh với tư cách là những vị thần bổn mạng, bảo trợ cho gia chủ. Tranh cúng là những bức tranh thế mạng cho người sống, các loại giấy tiền, vàng bạc... những vật phẩm dâng cúng trong các cuộc tế lễ, cầu đảo và được đốt (hóa vàng) ngay sau khi cúng tế. Đường nét và bố cục mang tính thô sơ, chất phác một cách hồn nhiên, nhưng nét độc đáo nhất là ở chỗ tô màu. Khi đó, nghệ nhân mới được thả mình theo sự tưởng tượng tự nhiên.

Văn hóa dân gian đang ngày càng mai một


Tranh dân gian Việt đã trở thành một ngôn ngữ nghệ thuật có giá trị trường tồn, góp phần phát triển văn hóa nghệ thuật dân tộc và là niềm tự hào của đất nước. Thế nhưng, các dòng tranh ấy hiện nay đang dần mai một và mất hẳn. Có lẽ, vì khó đáp ứng được thị hiếu của công chúng hiện đại cũng như không theo kịp được với sự phát triển thần tốc của văn hóa, kinh tế, xã hội... Điểm qua các dòng tranh dân gian Việt Nam, chúng ta không khỏi ngậm ngùi tiếc nuối cho tranh Kim Hoàng đã bị thất truyền, hàng Hồ bây giờ chỉ còn hai nhà làm tranh.
Các nhà làm tranh Hàng Trống hầu hết đều bỏ nghề, đốt bỏ dụng cụ, chỉ còn lưu giữ vài mẫu tranh trong các viện bảo tàng. Tranh làng Sình còn bốn hộ theo đuổi nghề làm tranh, nhưng cốt cách, hồn vía đã đổi khác. Như một quy luật tất yếu, sự phát triển kinh tế, song song với sự tiếp thu nhiều luồng văn hóa, khiến văn hóa truyền thống nói chung, trong đó có tranh dân gian, đang đứng trước những thử thách lớn. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Việt Nam hiện nay không chỉ toàn cầu hóa về kinh tế. Cả văn hóa nói chung, nghệ thuật nói riêng phần nhiều cũng bị ảnh hưởng. Số phận tranh dân gian sẽ thế nào. Làm sao để có thể vừa hội nhập, vừa hiện đại hóa mà vẫn bảo tồn và phát huy các giá trị và bản sắc

Tranh dân gian, muốn bảo tồn phải phát triển

Một trong những giải pháp là coi trọng nhân tố con người, với tư cách là chủ thể văn hóa, gắn các hoạt động sống của con người với môi trường xã hội và văn hóa. Nói cách khác, nên xem các nghệ nhân dân gian như báu vật sống. Ở họ tiềm ẩn sự sáng tạo và lưu truyền những giá trị nghệ thuật dân gian.
Các nhà quản lý nghệ thuật hội văn học nghệ thuật ở những địa phương có dòng tranh dân gian nên khuyến khích, kết nạp thêm nghệ nhân vào hội, kích thích khả năng sáng tạo của họ cùng với những chính sách hỗ trợ làng nghề. Mặt khác, nên khơi gợi nhu cầu hưởng thụ thẩm mỹ từ phía công chúng, tạo điều kiện triển lãm, giới thiệu tranh...
Ngoài ra, chúng ta cũng cần quan tâm đến việc giáo dục để thế hệ trẻ hiểu biết sâu sắc về lịch sử văn hóa của dân tộc, những giá trị to lớn của biểu hiện văn hóa thông qua nghệ thuật. Trong thời buổi kinh tế thị trường, chúng ta có nên coi nghệ thuật nói chung, tranh dân gian nói riêng là hàng hóa. Chúng ta cứ loay hoay tốn nhiều giấy mực bàn chuyện bảo tồn và phát triển, nhưng thực tế những người yêu thích tranh dân gian không biết tìm mua tranh ở đâu. Theo tôi, để phát triển, đưa được dòng tranh này đến công chúng, ta nên có các phương pháp tiếp thị rộng rãi như: đưa tranh đi triển lãm, bày bán ở những nơi thuận tiện và đông dân cư mở các gallery trưng bày, đưa vào các shop quà lưu niệm..
Phần nữa, muốn tồn tại trong thời đại này, đề tài tranh nên gần gũi hơn với cuộc sống hiện đại. Ví dụ, hình ảnh "con trâu đi trước, cái cày theo sau" phản ánh nền văn hóa lúa nước, nhưng hiện nay công nghiệp phát triển, nên chăng thay bằng máy cày, máy kéo, công nhân sản xuất hay không?
Tuy nhiên, đổi mới hay không thì yếu tố bản sắc vẫn phải đặt lên hàng đầu. Tranh dân gian phải được in trên giấy dó, một chất liệu đặc sắc, ít nơi nào có được bởi chỉ có giấy dó mới phản ánh được hồn Việt. Làm được những điều đó, chúng ta mới mong gìn giữ được những dòng tranh quý mang đậm chất dân gian Việt Nam.
Nguồn: Phong cách
read more...

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Giải mã 'âm thanh lạ' ở Hà Nội cách đây 90 năm

Giải mã 'âm thanh lạ' ở Hà Nội cách đây 90 năm
Cập nhật lúc :2:17 PM, 16/05/2012
(ĐVO) Những âm thanh đó không chỉ chứa đựng giai điệu ngọt ngào, trong nó còn có cả hương thơm, mùi vị, màu sắc, có tính kích thích tất cả các giác quan của chúng ta.
Tiếng rao của những người bán hàng rong khiến cho phố phường tại các đô thị của Việt Nam trở nên rất sinh động. Điều này khiến cho những người nước ngoài cảm thấy thú vị. Tuy vậy, rào cản ngôn ngữ thường khiến cho họ không hiểu gì cả.
Để “giải mã” những âm thanh đặc biệt kể trên, vào năm 1929, tác giả Pháp F. Fénis đã xuất bản một cuốn sách mỏng có tiêu đề “Hàng rong và tiếng rao trên đường phố Hà Nội” (Les marchands ambulants et les cris de la rue à Hanoi). Cuốn sách gồm 40 trang đã mô tả khá đầy đủ về các loại hình hàng rong và tiếng rao tương ứng ở Hà Nội thông qua hình ảnh và khuông nhạc minh hoạ.
Những hình vẽ minh hoạ trong ấn bản này do các học viên Trường Mỹ thuật Đông Dương, trong đó có Tô Ngọc Vân - người sau này trở thành hoạ sĩ nổi tiếng của Việt Nam - thực hiện.
Dưới đây là một số trang trong bản scan của một cuốn “Hàng rong và tiếng rao trên đường phố Hà Nội” đang được lưu giữ tại một thư viện của Viện Viễn đông Bác cổ Pháp tại Paris.




"Ai dâu chín của nhà ra mua".

"Bánh giò bánh dày".

"Se cấu se cấu" (kem vani).



"Ai bánh chưng bánh cốm ra mua".



"Chum chậu bát sứ vỡ hàn không".

"Ai giẻ rách sắt vụn bán không nào".



"Ai bánh Tây ra mua".

"Nước vối nóng ăn thuốc không".



"Ai mua ngô rang hạt dẻ ra mua".



"Ai mua bánh vừng không".

Chè hạt sen.



"Ai mía ra mua".

"Ai có chai cốc vỡ bán không".

"Ai kẹo vừng kẹo lạc kẹo bột trạm ô mai ra mua".

"Ai lạc rang ra mua".



"Ai nem sốt mua". "Ai nem mua đi".

"Trung Bắc, Thực Nghiệp, Khai Hoá" (tên của 3 tờ báo thời thuộc địa).



“Ai cháo đậu xanh chè đậu đen ra mua".
read more...

Chủ Nhật, 20 tháng 5, 2012

Gốm Thổ Hà – Bắc Giang



Gốm Thổ Hà – Bắc Giang

Làng Thổ Hà

Thổ Hà là một làng nghề thuộc xã Vân Hà huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang, cách Hà Nội 35 km đường bộ. Thổ Hà có vị trí như một ốc đảo trên diện tích 20 ha. Đó là một ngôi làng cổ với phong cảnh hữu tình, cây đa, bến nước, sân đình, những nếp nhà cổ san sát nằm sâu trong các ngõ hẻm cổ kính. Khác với các làng ở đồng bằng Bắc Bộ dân Thổ Hà hoàn toàn không có ruộng, bao đời sống bằng gạo chợ nước sông, thu nhập từ nghề thủ công và buôn bán nhỏ. Trước 1960 làng nổi tiếng về nghề làm gốm, từ 1990 lại đây nổi tiếng về nghề làm bánh đa nem và mỳ gạo.

Thổ Hà nằm trên bờ sông Cầu nên giao thông đường thủy rất thuận tiện, thuyền bè đi lại tấp nập. Xuôi sông Cầu tàu thuyền có thể về Phả Lại và ra biển, ngược sông Cầu có thể lên Hiệp Hòa, Thái Nguyên. Than Quảng Ninh được chở bằng thuyền hay xà lan tới làng. Ngày xưa sản phẩm gốm của làng theo đường sông chở tới bán ở các vùng miền cả nước.


Làng nghề gốm cổ bên dòng sông

Đi vào trong làng, kỳ thú nhất là những ngõ nhỏ. Một màu đỏ của thứ gạch cũ kĩ đã mòn vẹt, trơ ra thần thái của những bước chân thời gian, ngõ nhỏ heo hút, tường xếp chằn chặn một thứ sành nâu đen bóng. Khách đến nơi đây thường có ấn tượng đặc biệt với những ngõ xóm hun hút đẹp một vẻ cổ kính, hoài niệm mà lại dân dã, lắng đọng.

Cái đặc biệt trong lối ăn ở của con người làng gốm cổ là sử dụng chính những đồ gốm, mảnh gốm bỏ đi để xây nhà, xây tường. Không trát vôi vữa, mặc kệ gió mưa mà tạo thành hình thành khối gắn kết độc đáo.

Nghề gốm Thổ Hà

Nghề gốm Thổ Hà phát triển từ thế kỉ 14 và là một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nhất của người Việt, bên cạnh Phù Lãng và Bát Tràng. Theo gia phả làng nghề và những mẫu hiện vật khảo cổ được tìm thấy thì Thổ Hà là một trong những chiếc nôi của nghề gốm sứ. Ông tổ của nghề gốm làng Thổ Hà được cho là tiến sĩ Đào Trí Tiến. Ông đã học được nghề gốm trên đường đi sứ Trung Quốc và truyền lại cho dân làng. Thổ Hà đã là một thương cảng gốm tấp nập của vùng Kinh Bắc. Sự hưng thịnh của nghề gốm đã giúp người dân xây dựng một quần thể kiến trúc đình, chùa, từ chỉ, điếm bề thế uy nghi.



Để có thể tạo ra được các loại sản phẩm rất bền đẹp như chum vại, chĩnh chõ, tiểu sành có màu nâu sẫm, màu da lươn, người ta phải mua đất sét từ Choá ở huyện Yên Phong cách xa gần 10 km, hoặc mua đất sét ở Xuân Lai cách xa 12 km và phải chở qua sông rất vất vả. Đó là loại sét vàng, sét xanh, ít sạn và tạp chất có đặc tính dễ tạo hình và định hình khi nung ở nhiệt độ cao. Cũng nhờ vậy mà Thổ Hà có thể tạo ra các sản phẩm cỡ lớn với dung tích 400-500 lít. Ðồ gốm Thổ Hà không dùng men, được nung ở nhiệt độ cao để tự chảy men ra và thành sành, gốm màu nâu sẫm, thâm tím đanh mặt, gõ trên gốm tiếng kêu coong coong như thép, mảnh gốm có cạnh sắc như dao, đựng chất lỏng không bao giờ thấm qua, đựng chất rắn đầy chặt không bao giờ ẩm mốc. Gốm của Thổ Hà để nghìn năm không bị mất màu do kỹ thuật nung tốt.

Vào những năm 40 của thế kỷ trước nghề làm gốm Thổ Hà rất phát triển. Giữa những năm 60 của thế kỷ trước dân cư trong làng phát triển, các lò gốm tốn nhiều diện tích đất và gây ô nhiễm nên nhà nước thành lập Xí nghiệp gốm Đá Vang trên vùng đồi núi của làng Lát cách Thổ Hà 3 km về hướng Bắc, toàn bộ dân làm gốm của Thổ Hà thành công nhân của xí nghiệp, ăn lương nhà nước.

Nghề gốm Thổ Hà – Bắc Giang (Ảnh chụp trước năm 1935)


Đất thó được dầm nát bằng chân


Đất thó được dầm nát bằng 1 thứ dụng cụ riêng


Đất thó đã nhuyễn được đưa lên bàn xoay để nặn vại


Trong sân nhà làm đồ gốm: tiểu và chum đang phơi nắng


Những dụng cụ của thợ làm đồ gốm


Cửa lò bịt kín sau khi đã xếp đồ gốm vào nung

Đầu những năm 80 kinh tế của thời bao cấp vô cùng khó khăn, dân làng chuyển sang nghề mới là làm mỳ gạo và nấu rượu từ sắn. Thời gian này nấu rượu từ gạo và buôn bán rượu vẫn bị cấm. Nhiều công nhân đã bỏ Xí nghiệp gốm để về làm hàng.

Đến năm 1988 đồ nhựa đã trở nên thông dụng, các sản phẩm như chum, vại bằng sành vừa to vừa nặng khó mà bán được nên Xí nghiệp gốm Đá Vang giải thể, đặt dấu chấm hết cho nghề gốm 700 năm của làng Thổ Hà.


Hoạt động nghề gốm Thổ Hà - ảnh chụp 2008

Ngày nay dấu tích của nghề gốm vang bóng một thời là những bức tường nhà và bức tường ngõ xây toàn bằng những mảnh gốm vỡ hay tiểu sành phế phẩm mà không dùng chút vôi vữa nào, chỉ dùng bùn của sông Cầu để kết dính. Khách lạ có thể rất hãi hùng khi ngủ trong một phòng mà bốn bức tường xây toàn bằng tiểu sành.

Vài năm gần đây có một người dân Thổ Hà tập trung các nghệ nhân cũ để mở một lò gốm nhằm khôi phục nghề gốm cổ truyền, sản xuất các loại lọ hoa và tiểu sành, song việc khôi phục là rất khó khăn.
read more...