ĐỒ SỨ BLEU DE HUE TRONG SƯU TẬP VƯƠNG HỒNG SỂN
PHÍ NGỌC TUYẾN (*)
Vương Hồng Sển (1902 – 1996) là một nhà nghiên cứu văn hóa đồng thời là nhà sưu tập cổ vật nổi tiếng ở miền Nam. Suốt cuộc đời, ông đã say mê tìm hiểu và sưu tập được hàng trăm món cổ vật qúy giá gồm nhiều chất liệu khác nhau như gốm, đá, gỗ, đồng, sừng, ngà, sơn mài, vải, giấy… Trong đó, số lượng nhiều nhất, có giá trị hơn cả là đồ gốm của Trung quốc, Việt nam, Cam-pu-chia, Thái lan, Nhật, Pháp… Trong sưu tập gốm sứ của ông, chúng ta dễ dàng nhận ra các loại đồ gốm men trắng hoa lam thế kỷ XVIII được sản xuất tại Trung quốc hoặc do các nước đặt hàng Trung quốc làm với những kiểu dáng, hoa văn trang trí khác biệt, trong ấy có nhiều loại hình do các chúaViệt nam đặt hàng.
Trước khi giới thiệu về một số cổ vật gốm sứ men lam thế kỷ XVIII có ghi chữ: “Nội phủ…” và “Khánh xuân …” được làm tại Trung quốc theo Việt Nam đặt hàng trong sưu tập của Vương Hồng sển, chúng tôi xin được phép sơ lược qua vài nét về chủ nhân của nó với tấm lòng kính trọng và ngưỡng mộ về một con người đầy tài hoa, phóng túng.
Vương Hồng Sển sinh năm 1902 tại tỉnh Sóc trăng (miền tây Nam bộ) trong một gia đình làm nghề kim hoàn. Lớn lên, ông theo học tại trường Chsseloup Laubat Saigon (1919 – 1923) nay là trường Trung học phổ thông Lê Qúy Đôn. Sau khi thôi học, Oâng làm nhiều công việc ở nhiều nơi khác nhau : Thư ký trường máy ; Ký lục – phát lương (Sa đéc) ; Thư ký Sở Điền địa (Sóc trăng) ; Tòa Bố chính (Cần thơ) ; Dinh Thống đốc Nam kỳ (sài Gòn) ; Quản thủ Viện bảo tàng Quốc gia tại Sài gòn (1948 – 1964).
Trong những năm làm việc cho Nhà nước thuộc địa Pháp và chính quyền Sài gòn trước đây, Vương Hồng Sển đã bỏ nhiều công sức, chuyên tâm chăm lo nghiên cứu, sưu tầm cổ vật, nghiên cứu văn hóa, phong tục tập quán của miền Nam, tham gia hướng dẫn và giảng dạy đại học. Khi về hưu, ông tập trung viết sách, hồi ký và nghiên cứu sưu tập cổ vật của mình. Oâng cũng góp phần đáng kể trong việc xác định niên đại của một số chủng loại gốm (đặc biệt các loại gốm do Trung quốc sản xuất) và hướng dẫn kỹ năng ban đầu cho người thích sưu tập cổ vật. Nhờ sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình cùng những tác phẩm nghiên cứu của mình, lớp học trò của ông ngày nay có khá nhiều người thành đạt và nổi tiếng trên lĩnh vực sưu tầm và nghiên cứu cổ vật ở trong và ngoài nước. Nhiều công trình nghiên cứu của ông được các nhà chuyên môn đánh giá cao. Oâng đã xuất bản được 15 đầu sách có giá trị như : 50 năm mê hát (1968) ; Thú chơi cổ ngoạn (1971) ; Sài Gòn năm xưa (tái bản lần thứ 4 vào năm 1994) ; Khảo về đồ sứ cổ Trung hoa (1971,1972) ; Khảo về đồ sứ men lam Huế (1993,1994) …. Cuối đời, với lòng mong muốn sưu tập cổ vật của mình được bảo tồn lâu dài, trải qua những năm tháng gian khổ, đấu tranh với chính bản thân mình và gia đình, với bệnh tật hiểm nghèo và vượt lên tất cả, ôâng đã quyết định lập di chúc hiến tặng toàn bộ cổ vật và nhiều sách qúy hiếm cho Nhà nước.
Sau khi ông qua đời, theo quyết định của Uûy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, toàn bộ 815 trong tổng số 849 cổ vật đã được đưa về bảo quản và nghiên cứu tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh. Là một thành viên trong qúa trình tiếp nhận bộ sưu tập cổ vật trên từ gia đình cố học giả Vương Hồng Sển theo di chúc, chúng tôi đã có một số thời gian nhất định để phân loại, sắp xếp, thống kê, đo vẽ, chụp ảnh, đối chiếu với những công trình nghiên cứu và sổ tay ghi chép cổ vật của ông. Suốt qúa trình ấy, những cổ ngoạn trong bộ sưu tập này như có sức hút kỳ lạ chúng tôi. Mỗi chiếc đĩa, tô, chén, bát, chậu, bình, ấm trà… đều là một tác phẩm nghệ thuật, là thời khắc lịch sử…
Trong sưu tập gốm sứ của cố học giả Vương Hồng Sển, có một số hiện vật thuộc loại gốm men trắng hoa lam được sản xuất tại Trung quốc do Việt nam đặt làm vào thế kỷ XVIII. Những sản phẩm này có kiểu dáng, hoa văn trang trí độc đáo và thường ghi một số chữ Hán : “Nội phủ thị trung”, “Nội phủ thị đông”, Nội phủ thị nam”, “Nội phủ thị bắc”, “Nội phủ thị đoài”, “Nội phủ thị hữu” và “Khánh xuân thị tả” (trong bài viết, chúng tôi gọi tắt là:”Nội phủ…” và “Khánh xuân…”). Những hiện vật kể trên cùng với hơn 200 hiện vật khác thuộc sưu tập Vương Hồng Sển đã được trưng bày tại một số nơi như Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Hà nội… thu hút đông đảo công chúng, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Để người quan tâm đến bộ sưu tập Vương Hồng Sển có những thông tin cụ thể hơn, trong phạm vi bài này, chúng tôi xin giới thiệu về một sưu tập nhỏ trong bộ sưu tập của ông, đó là sưu tập đồ gốm hoa lam “Nội phủ…” và “Khánh xuân…”.
1. Hiện vật trong sưu tập gốm sứ :
Đồ gốm sứ Việt nam đặt Trung quốc sản xuất ở thế kỷ XVIII (thuộc bộ sưu tập Vương Hồng Sển) lưu tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh đều có ghi “Nội phủ…” hoặc “Khánh xuân…” tất cả có 19 món, phân loại như sau :
Nội phủ thị trung : 2 Nội phủ thị bắc : 2
Nội phủ thị nam : 2 Nội phủ thị hữu : 7
Nội phủ thị đông : 2 Khánh Xuân : 4
Để bạn đọc có một cái nhìn bao quát về loại gốm này, chúng tôi xin giới thiệu một số hiện vật cụ thể :
1.1 Đồ gốm sứ ghi “Nội phủ…”
- Tô “Nội phủ thị trung” (mang ký hiệu BTLS.15124) có đường kính miệng 19cm, cao 7cm. Chiếc tô này ông Vương Hồng Sển mua năm 1962 tại Sài Gòn. Bên trong lòng tô vẽ chữ “Thọ” hình tròn ; ngoài tô vẽ rồng 4 móng một con long mã, trên lưng con long mã có một cuốn thư và thanh bảo kiếm. Các nét vẽ trơn tru, khéo léo, chính xác ; men sáng trong ; xương gốm mỏng. Dưới đáy ghi 4 chữ Hán “ Nội phủ thị trung”.
- Tô “Nội phủ thị trung” (BTLS.15123) có đường kính miệng 17cm, cao 6,5cm, mua năm 1966. Da tô trơn, không rạn ; trong lòng vẽ chữ “Thọ” hình tròn; thành ngoài vẽ rồng 4 móng đạp chân lên đụn mây (tản vân) và một con long mã trên lưng chở cuốn thư và kiếm, dưới chân có mây. Hai con vật linh chầu nhật. Dưới đáy tô ghi chữ Hán “Nội phủ thị trung”.
- Đĩa “Nội phủ thị trung” (BTLS.15177) có đường kính miệng 11cm, cao 2,7cm. Trong lòng đĩa vẽ đề tài “lưỡng long chầu nhật”, cảnh hai con rồng đang vờn quanh một qủa cầu lửa, cạnh đó là những đám mây. Bên ngoài đĩa cũng vẽ đề tài trên, nhưng hai con rồng uốn khúc quanh co, tạo thành một vòng xung quanh thành ngoài đĩa. Dưới đáy ghi 4 chữ Hán “Nội phủ thị Trung”.
- Bộ đĩa, chén “Nội phủ thị hữu” (BTLS.15158-15161) là một bộ đĩa chén uống trà có 4 món : đĩa đựng, chén tống, hai chén quân (1) : đĩa đường kính miệng 17,5cm ; chén tống đường kính miệng 7,5cm, cao 4,5cm ; chén quân đường kính miệng 6 cm, cao 3,5cm. Các họa tiết trang trí trong mỗi cái đều vẽ hình rồng và phượng chầu chữ “Thọ” hình tròn. Con rồng được thể hiện 5 móng rất rõ ràng. Nghiên cứu về bộ trà này, Vương Hồng Sển cho rằng, đây là bộ chén trà ngự dụng do Chúa và Tuyên phi sử dụng, về sau những bộ tương tự như vậy nhường lại cho vua Lê và Hoàng hậu. Bộ chén uống trà chỉ có 2 chén quân cho 2 người là đúng nghi lễ theo cách “đối ẩm”, “song ẩm”? (2).
- Tô lớn “Nội phủ thị hữu” (BTLS.15128) là một chiếc tô khá lớn. Đường kính miệng 29,5cm, cao 8cm. Chiếc tô này ông Vương Hồng Sển mua ngày 1/1/1965 tại Sài Gòn. Tô đã bị rạn, nứt đôi chỗ. Cả hai mặt trong và ngoài vẽ rồng và phượng chầu nhật (mặt trời). Rồng 5 móng đang bay lượn ẩn hiện trong những cụm mây. Dưới đáy tô ghi chữ Hán “ Nội phủ thị Hữu”. Kích thước của tô khá lớn. Do vậy, nhiều người không đồng ý với tên gọi là “tô”. Ông Vương Hồng Sển gọi nó là “Quán tẩy” (chậu rửa mặt).
- Đĩa “Nội phủ thị đông” (BTLS.15483) có đường kính miệng 19cm, cao 2,4cm mua ngày 30/6/1960. Chiếc đĩa vẽ cả mặt trong và thành ngoài. Đề tài trang trí được thể hiện là hình ảnh của hai con lân đang vờn nhau giữa đám mây sòi. Nét vẽ điêu luyện, giúp người xem cảm tưởng như từng đường gân, bắp thịt của con lân cuộn lên, cảnh sống động, vui tươi. Dưới đáy ghi chữ Hán “Nội phủ thị đông”. Nhiều người nghiên cứu loại hình này, hầu hết cho rằng những đồ dùng ghi “Nội phủ thị đông” được dùng trong Đông cung của phủ Chúa, mà Đông cung là nơi ở của Thái tử, người sẽ thay thế ngôi vị sau này.
- Đĩa “Nội phủ thị đông” (BTLS.15484) có đường kính miệng 10,5cm, cao 2,4cm được vẽ đề tài “Mai – điểu” (chim và hoa mai). Trên gốc mai già hoa nở kín, có con chim đang đậu và nhòm ngó bắt sâu. Hai câu thơ chữ Hán rõ nét, sắc sảo :
“Vị kinh tam bạch hậu
Tiên chiếm bách hoa khôi”
(ý thơ ca ngợi vẻ đẹp của hoa mai trước trăm hoa)
- Chén “Nội phủ thị bắc” (BTLS.15119) có đường kính 9,5cm, cao 4,2cm. Ông Vương Hồng Sển mua ngày 5/10/1960. Trong lòng chén để men trắng, các đề tài trang trí được thể hiện ở thành ngoài chén : phong cảnh gồm 2 tòa lâu đài, phía trước có 2 cây tùng ; hai người cưỡi ngựa, theo sau có 2 tiểu đồng, tất cả đều từ phía lâu đài đi ra. Phía trước đoàn người, ngựa có một cây cầu bắc qua sông, bên kia sông xa xa là một dãy núi. Bên bờ sông, cạnh chiếc lều nhỏ, một ông già đang cất vó. Câu thơ chữ Hán ghi :
“Hoa cảng quan ngư
Giang sơn trình tú lệ
Hương thấn mã đề khinh”
(ý thơ ca ngợi vẻ đẹp của non sông đất nước)
- Đĩa “Nội phủ thị nam” (BTLS.15129) có đường kính miệng 12cm, cao 2,8cm. Trong lòng đĩa vẽ 2 con cua, 2 bông sen, 2 lá sen và một nhánh cỏ lau vươn lên cao. Thành ngoài vẽ 1 con cua, 1 lá sen và 2 nhánh cỏ lau vươn cao hơn lá sen. Đáy ghi chữ Hán : “Nội phủ Thị Nam”. Trong lòng đĩa cũng có câu thơ :
“Thanh hương trần bất nhiễm
Hoạt động y vô cùng”
(ý thơ ca ngợi vẻ đẹp và hương thơm của hoa sen)
Những đồ sứ men lam có vẽ cua, sen và đề hiệu “Nội phủ thị nam”, có phải là những đồ vật dùng trong Nội phủ mà vị trí của nó là nhà bếp của Chúa?
1.2 Đồ gốm sứ ghi “Khánh Xuân…”
Đồ gốm sứ men trắng vẽ lam có hiệu “Khánh xuân…” đặt làm tại Trung quốc vào thế kỷ XVIII cũng tương đồng về thời gian với các loại hiệu “Nội phủ” nhưng muộn hơn một chút. Sản phẩm gốm hiệu Khánh Xuân xinh xắn hơn bởi dáng, hoa văn, nét vẽ do bàn tay các nghệ sĩ tài ba. Trong sưu tập gốm sứ Vương Hồng Sển đang bảo quản và gìn giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh có 4 món. Các đề tài trang trí thường là rồng, sư tử, lân, chữ thọ, khánh… Chúng tôi xin giới thiệu 2 hiện vật tiêu biểu sau :
- Đĩa “Khánh Xuân thị tả” (BTLS.15139) có đường kính miệng 26,5cm, cao 3,8cm. Ông Vương Hồng Sển mua ngày 3/6/1959 do một người mang từ Huế vào Sài Gòn bán . Chiếc đĩa này khá lớn, nguyên vẹn. Trong lòng đĩa vẽ hình rồng 5 móng ẩn hiện trong mây và chữ “Thọ” ỡ giữa. Mặt sau của đĩa vẽ đề tài thủy ba rợn sóng. Trên sóng nước cuồn cuộn có một con long mã lớn, đầu có gạc có sừng ; phía sau long mã lớn có hai long mã khác nhỏ hơn đang chạy theo con lớn. Dưới đáy ghi chữ Hán “Khánh Xuân thị tả”.
Khi nghiên cứu hiện vật này, ông Vương Hồng Sển cho rằng, Trịnh Sâm khi đặt làm những sản phẩm này đều có dụng ý về chính trị, âm mưu thoán quyền Vua Lê. Trịnh Sâm coi mình có quyền thống soái (rồng 5 móng). Hàm ý của đề tài long mã lớn và 2 long mã nhỏ chỉ Chúa Trịnh Sâm và hai con trai, ngầm hiểu ý là Thái sư, Thiếu sư trong triều ? (4).
- Chén tống “Khánh Xuân thị ta”û (BTLS – 15118) có đường kính miệng 7cm, cao 5cm. Dáng của chén thanh thoát, vẽ màu lam hơi đậm. Đề tài trang trí là rồng, sóng nước, mây. Một con rồng lớn có 5 móng đang bay trên không trung có những làn mây. Một con rồng khác nhỏ hơn đang từ dưới biển vạch sóng trồi lên chào đón rồng lớn (không rõ mấy móng vì thân rồng còn ở dưới nước). Dưới đáy chén có chữ Hán “Khánh xuân Thị tả”.
2. Một vài nhận xét
- Trên đây, chúng tôi đã giới thiệu một số hiện vật gốm sứ hiệu “Nội phủ…” và “Khánh xuân…” trong tổng số 19 món đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt nam – TP.HCM. So sánh, đối chiếu giữa số lượng hiện vật trên thực tế với số lượng mà ông Vương Hồng Sển đã viết trong sách “Khảo về đồ sứ men lam Huế” (tập thượng), chúng tôi thấy có sự chênh lệch : có 31 món(5). Để tiện theo dõi, chúng tôi lập bảng sau :
TT
HIỆU ĐỀ
SỐ LƯỢNG HIỆN VẬT TRONG SÁCH
SỐ LƯỢNG HIỆN VẬT TẠI BẢO TÀNG
1
2
3
4
5
6
7 Nội phủ thị trung
Nội phủ thị hữu
Nội phủ thị đông
Nội phủ thị đoài
Nội phủ thị bắc
Nội phủ thị nam
Khánh Xuân thị tả
07
07
04
03
03
01
06
31 hiện vật
02
07
02
0
02
02
04
19 hiện vật
Sở dĩ có sự chênh lệch về số lượng trên đây, chúng tôi cho rằng, cuốn sách mà ông Vương Hồng Sển đã viết và hoàn thành vào năm 1972 theo lời tựa ghi ở đầu sách thì “…cuốn bản thảo cứ nằm trơ trên bàn”, do đó, qua mấy chục năm, số lượng hiện vật có sự thay đổi : đổi món này, lấy món kia của những người chơi cổ ngoạn ; bán món này, mua món khác thích hơn. Cuối đời, số cổ vật của ông thường bị con trai và con dâu lấy trộm đem bán như trong cuốn sổ tay của ông đã ghi rõ (5). Do vậy, chúng tôi thấy rằng, một số hiện vật có ghi chép, mô tả trong sách nhưng hiện tại không có, hoặc hiện vật có nhưng lại không ghi trong sách.
- Về niên đại của những loại đồ gốm này, Vương Hồng Sển và một số nhà nghiên cứu khác như : Trần Đình Sơn, Phạm Hy Tùng, Trần Đức Anh Sơn… đều cho rằng đã được làm vào thế kỷ XVIII tại Trung quốc. Niên đại này còn được khẳng định thêm bởi Hội đồng Giám định cấp Nhà nước vào đầu năm 1997 do Giáo sư Hà Văn Tấn làm Chủ tịch.
- Việc xác định chủ nhân của những đồ gốm kể trên là một việc làm khó khăn. Theo sử liệu về tình hình xã hội Việt nam thế kỷ XVIII, chúng tôi đồng ý với Vương Hồng Sển và một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là những sản phẩm do các chúa Nguyễn đặt làm tại Trung quốc để làm đồ dùng trong phủ chúa. Nhưng nói món này dùng ở chỗ này, món khác dùng ở chỗ kia… cũng cần cân nhắc thấu đáo thêm.
- Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt nam suốt hơn hai trăm năm, họ Trịnh đã mượn tiếng phò Lê để dần dần lấn lướt, tiếm quyền. Ban đầu, nhìn bên ngoài, có lẽ các chúa chưa dám đoạt ngôi vua nên đã lập ra “phủ” ; không dám xưng “cung”, xưng “điện” nhưng thực ra, mọi quyền hành hầu như đã thâu tóm hết về tay. Các chúa đã tước hết mọi thực quyền của vua Lê, quy định chế độ bổng lộc của nhà vua…Từ chỗ thành lập 3 phiên (Binh , Hộ, Thủy sư) đến chỗ thành lập 6 phiên ( Lại, Hộ, Lễ, Binh , Hình, Công) và chịu trách nhiệm cai trị đất nước. Khi mọi quyền lực chính trị, kinh tế, quân sự ở xứ Đàng Ngoài đều tập trung vào phủ chúa, họ Trịnh đã ra sức tác oai, tác quái, sống xa xỉ trên mồ hôi nước mắt của nhân dân. “Ruộng đất rơi hết vào nhà hào phú, còn dân nghèo thì không có một miếng đất cắm dùi”(7). Nội chiến liên miên, thuế khóa nặng nề, quan lại nhũng nhiễu làm cho đời sống nhân dân ngày càng sa sút nghiêm trọng.
Sau 248 năm với 11 đời chúa trị vì, năm 1786 với việc vua Lê Chiêu Thống ra lệnh đốt hoàn toàn phủ chúa đã chấm dứt vai trò của thế lực họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Từ đây, phủ chúa đã đi vào dĩ vãng. Ngày nay, tuy không còn biết phủ chúa hình dáng, kiến trúc, vị trí các khu vực trong phủ ra sao… nhưng qua những món đồ sứ ghi bằng chữ Hán và các biểu tượng hoa văn mà các chúa đã đặt làm ở Trung quốc như : “Nội phủ thị trung”, “Nội phủ thị đông”, “Nội phủ thị hữu”, “Nội phủ thị nam”, “Nội phủ thị bắc”, “Nội phủ thị đoài” và “Khánh xuân thị tả”û đã giúp chúng ta hình dung được một phần sơ đồ cùng lối sống xa hoa ở nơi phủ chúa.
Tuy chưa đồng ý với nhau nhiều vấn đề khi nghiên cứu loại gốm này, nhiều tác giả như Vương Hồng Sển, Trần Đình Sơn, Trần Đức Anh Sơn, Phạm Hy Tùng… (8), Phạm Hữu Công (9) đã có những phác họa một sơ đồ đơn giản về Nội phủ theo kiểu đăng đối như sau:
Nội phủ
thị bắc
Nội phủ Nội phủ Nội phủ Khánh xuân Nội phủ
thị tây (Đoài) thị hữu thị trung thị tả thị đông
Nội phủ
thị nam
Theo sơ đồ trên, Vương Hồng Sển ; Trần Đình Sơn… cho rằng, những mô típ, hình thức trang trí, đồ dùng nơi phủ chúa có những nét riêng nhất định:
Nội phủ thị trung (tập trung chính điện) là nơi sinh hoạt của chúa, đề án trang trí là rồng 5 móng và mây.
Nội phủ thị hữu (điện bên phải) là nơi dành cho Chánh phi, các đề án trang trí thường là rồng và phượng.
Nội phủ thị đông (điện phía đông) là nơi ở của các Hoàng tử, các đề án trang trí thường là lân, chim, hoa, mây.
Nội phủ thị nam (điện phía Nam) là nơi trù viện (bếp), thường được trang trí các đề án có hoa sen, cua, vịt…
Nội phủ thị đoài (điện phía Tây) dùng để trang trí phong cảnh.
Nội phủ thị bắc (điện phía Bắc) là nơi ở của các phi tần, trang trí bằng các đề án hoa cúc.
Khánh xuân thị tả (điện mừng xuân) thường dùng các đề án trang trí như rồng và 2 con lân…
Việc đoán định và đặt vị trí cho từng loại kể trên, tôi cho là có cơ sở. Nhưng trên thực tế, trong một vài sưu tập tư nhân có những món đồ gốm với đặc diểm về dáng, men ,đề tài trang trí, nét vẽ… thuộc về những loại kể trên, nhưng chỉ ghi hai chữ “Nội phủ” hoặc không ghi chữ nào?
- Những sản phẩm gốm sứ mang hiệu “Nội phủ…” và “Khánh xuân…” được làm vào thế kỷ XVIII, lúc đó là những đồ dùng cao cấp xa xỉ nơi phủ chúa. Những vật dụng này đã được các chúa Đàng Ngoài đặt làm vào đúng thời kỳ thịnh đạt huy hoàng của các lò gốm sứ Trung quốc. Mỗi sản phẩm là sự kết hợp tài tình của các nghệ nhân bởi những bộ óc sáng tạo và bàn tay khéo léo. Gần ba trăm năm qua đi, những sản phẩm độc đáo ấy hiện nay còn quá ít (kể cả trong hai bảo tàng lớn của Việt Nam là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Hà nội) và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh. Một phần (có lẽ không nhỏ), những cổ vật quý giá này hiện vẫn nằm rải rác trong dân và một số nhà sưu tập tư nhân ở trong và ngoài nước. Những cổ vật mà chúng tôi giới thiệu trong bài này cũng là một phần rất nhỏ (cả về số lượng và loại hình), nhưng đã góp phần quan trọng cho việc vẽ ra một mảng màu cho bức tranh gốm Việt Nam trong lịch sử.
- Cái đẹp của gốm “Nội phủ…” và “Khánh xuân…” trong sưu tập này, trước hết phải nói về dáng. Việc tạo dáng cho gốm loại này có xu hướng nhỏ, gọn, xinh xắn. 19 cổ vật kể trên không có cái nào to lớn, cồng kềnh. Hơn nữa, dáng của gốm không có những chi tiết phụ hay đắp nổi cầu kỳ, rườm rà. Gốm được tạo dáng đơn giản, các góc không gãy đột ngột mà mở rộng và lượn vòng, cung độ lớn. Nhìn phong cách tạo dáng của gốm sứ trong sưu tập của Vương Hồng Sển, thoạt nhìn ta thấy cảm giác gần gũi với gốm hoa lam thời Lê. Tuy nhiên, có thể nói, gốm loại này về kiểu dáng có chứa đựng những nét tinh tế của dáng gốm Trung hoa và Việt : hài hòa, giản đơn…
- Sau yếu tố tạo dáng phải kể đến các hoạ tiết trang trí trên gốm “Nội phủ…” và “Khánh xuân…”. Các đề tài trang trí thường là rồng, phượng, lân, vịt, chim, mây, sóng nước, hoa mai, hoa sen… Đặc biệt, hình tượng rồng, phượng, lân… có nhiều trong các cổ vật trên đây. Con rồng có thân hình mềm mại, ẩn hiện trong mây trời. Hình dáng, râu tóc, mặt mũi, nanh vuốt và đuôi rồng rất giống với rồng trang trí ở triều Nguyễn sau này, khác hẳn với rồng Trung quốc. Rồng trong sưu tập gốm sứ này có 2 loại 4 móng và 5 móng – biểu tượng của vương quyền.
- Nghệ thuật trang trí được sử dụng bằng cách vẽ trực tiếp trên xương gốm. Đây là cách vẽ rất khó về bố cục, đường nét. Một nét vẽ xuống là vĩnh viễn không bao giờ thu lại được. Do vậy, đòi hỏi nghệ nhân phải có tay nghề cao, điêu luyện và tất nhiên sản phẩm ra đời không cái nào giống cái nào. Đó mới là điều độc đáo, có giá trị cao trong nghệ thuật. Các nét vẽ sau khi nung chảy, chỗ thì mờ nhạt, chỗ thì đậm nét… làm cho gốm cứ lung linh, huyền ảo.
- Sản phẩm gốm “Nội phủ…”û và “Khánh xuân…” trong sưu tập Vương Hồng Sển tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh cũng như ở các bảo tàng khác và các nhà sưu tập đều thuộc những cổ vật qúy giá bởi giá trị lịch sử, văn hoá và nghệ thuật của nó. Những sản phẩm này có lẽ chỉ được đặt hàng vài lần và có số lượng không nhiều, kể cả trong các sách nghiên cứu gốm của Trung quốc cũng không thấy đề cập đến gốm “Nội phủ…”û và “Khánh xuân…”(9)ï. Và có lẽ cũng vì thế mà các loại đồ gốm nói trên đến nay đã trở nên rất hiếm hoi. Trước thực tế đó, việc sưu tầm, giữ gìn, bảo quản các hiện vật thuộc loại gốm “Nội phủ…” và “Khánh Xuân…” lại càng cần thiết. Có được sưu tập hiếm hoi đồ gốm thuộc loại trên đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt nam – TP.HCM, chúng ta thêm trân trọng cố học giả Vương Hồng Sển – người đã dành nhiều thời gian và công sức cho việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc.
Chú thích:
(1) : Khi uống trà, trà được rót từ bình trà vào chén tống, sau đó từ chén tống lại rót vào các chén quân – chén quân nhỏ hơn chén tống.
(2) : Vương Hồng Sển – Khảo về đồ sứ men lam Huế – Quyển thượng – NXB TP. Hồ Chí Minh – TP. Hồ Chí Minh, 1993, trang 134.
(3) : Vương Hồng Sển – Đã dẫn, trang 142.
(4) : Vương Hồng Sển – Đã dẫn, trang 144,145.
(5) : Gồm có 14 cuốn sổ ghi chép cổ vật, hiện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. Hồ Chí Minh đang lưu.
(6) : Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập I. NXB Giáo dục. H. 2000. Trang 395.
(7) Trong cuốn : “Đồ sứ men lam Huế” , những trao đổi học thuật, NXB Thuận hóa, Huế, 1997, tr. 181,182 ; 202,203 ; 232,233 ; 254,258.
(8) : Phạm Hữu Công – Thông báo khoa học số 2 – Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, tr.137.
(9) Trong bài viết, cúng tôi có sử dụng “Đề cương trưng bày” và “Tóm tắt thuyết minh sưu tập Vương Hồng Sển” của Bảo tàng LSVN – TP. HCM.
(*) Nghiên cứu sinh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.