SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA NGHỆ THUẬT ĐỒNG CỔ VƯƠNG QUỐC ĐIỀN VÂN NAM VÀ ĐÔNG SƠN.
(phần 2 và hết).
Nguyễn Xuân Quang.
Những điểm khác biệt và không chính thống trong Vũ Trụ Tạo
Sinh, Vũ Trụ giáo của văn hóa đồ đồng Điền so với của đại tộc Đông Sơn. Như đã biết nổi trội nhất, chính yếu nhất của đồ đồng Vương quốc Điền là các vật đựng vỏ ốc sứ, bằng chứng là trong ngôi Mộ Số 6 của một vị vua Điền chỉ thấy để những vật đựng vỏ ốc sứ mà không có để trống đồng như thấy ở các ngôi mộ trong văn hóa của đại tộc Đông Sơn. Những vật đựng này được coi như là tinh hoa nhất của nghệ thuật đồ đồng của Vương quốc Điền. Các vật này đã giúp đồ đồng Điền nổi tiếng với thế giới. Trong khi trống đồng Điền lu mờ đứng phía sau các vật này, ngược hẳn lại trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn là một khuôn mặt chủ yếu của văn hóa Đông Sơn.
- Những vật đựng vỏ ốc sứ.
Ta thấy cách diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh trong văn hóa đồ đồng Điền theo chiều thẳng đứng không chính thống: vùng tang trống là vùng nước theo chính thống chỉ có cảnh sinh hoạt liên hệ với nước như thuyền bè, chim thú nước thấy trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Ở đây tang trống có vành chim cắt (lửa dương) chim trĩ (lửa âm) hoàn toàn nghịch lý với vùng nước. Vùng thân trống là Trục Thế Giới chỉ dùng làm trục lộ để dâng hiến các tế vật hay dùng làm phương tiện giao thông cho các linh hồn người chết hay giới lãnh đạo tinh thần như ông mo, thầy pháp đi lại Tam Thế. Ở đây dùng làm Trung Thế với cảnh người săn hươu hay hổ săn bò, hoàn toàn nghịch lý. Đế trống là Hạ Thế cõi âm tăm tối thường không có trang trí gì hết. Ở đây chân trống có trang trí các chim thú cõi âm thường thấy ở các trống muộn và ở các trống của các tộc chịu ảnh hưởng của văn hóa đại tộc Đông Sơn như thấy ở một vài trống ở Nam Dương, hoàn toàn nghịch lý.
.Cách diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh không chuyên chính, chính thống ví dụ nếu dùng thân trống làm Trung Thế cõi giữa thế gian thì chính thống chỉ cần có người và thú bốn chân bắt buộc phải có mang biểu tượng liên quan tới vũ trụ quan, nhân sinh quan như hươu chậy quanh mặt trời, người mặt trời trên trống Ngọc Lũ I. Ở đây diễn tả cảnh người săn hươu, hổ săn bò rất phàm tục, duy tục, sát máu, du mục và mang sắc thái rất muộn so với văn hóa Đông Sơn. Ở đây qua cảnh các tượng hình người săn hươu trên mặt vật đựng, trên thân trống, hổ săn bò, chim ăn rắn… Vũ Trụ giáo đã được nhìn theo con mắt du mục, võ biền không chính giáo dựa trên nguyên lý nòng nọc, âm dương đề huề như trên các trống của đại tộc Đông Sơn.
.Trống không còn dùng làm trống thờ tức bộ gõ dùng gõ lên để khơi động quá trình vũ trụ tạo sinh, lúc khởi sự các nghi thức tế lễ, hiến tế liên quan tới Tam Thế. Mặt trống trên có những hình tượng nổi dùng dâng hiến tế vật hay diễn tả những nét đặc thù trong văn hóa, sử, các sinh họat nhân sinh chính của Vương quốc Điền. Mặt trống không còn phù hợp với bộ gõ nữa. Trống không còn là trống nữa.
.Hơn nữa đáy trống bịt kín để dùng như một vật đựng, không còn để hở mang ý nghĩa âm tính (mặt trống đặc mang dương tính), một nét chính yếu của chủ thể nòng nọc, âm dương của trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Trống có đáy kín không còn là trống nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn.
. Như đã biết trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn nhất là loại Cây Nấm Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) Nguyễn Xuân Quang VI tức Heger I diễn tả trọn vẹn Vũ Trụ Tạo Sinh, Tam Thế, Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống). Người Điền diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh theo chiều đứng ở phía bên trống tức nhìn theo chiều cắt thẳng đứng của trống và trục trống có thiết diện hình chữ T. Vật chữ T trong nhiều nền văn hóa thế giới cũng có một khuôn mặt là Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) trong có Trục Thế Giới như ở người Ai Cập cổ, người Maya… (xem các bài Sự Tương Đồng Giữa Ai Cập Cổ, Maya Cổ với Việt Cổ). Các vật dùng dâng vật hiến tế, lễ vật thường có thiết diện hình chữ T ví dụ như chiếc bàn Thiên của người Việt để cúng trời đất Tam Thế mang hình ảnh của một Trục Thế Giới. Chiếc bàn thờ dâng vật hiến tế có hình chữ T cũng thấy trong Hán ngữ Shì (thị) ở dạng giáp cốt văn có nghĩa là bầy tỏ, tỏ rõ (lòng biết ơn tới Tam Thế).
Hán ngữ shì (thị) (Wang Hongyuan.)
Chữ Shì nguyên thủy có hình bàn thờ hình chữ T diễn tả Trục Thế Giới.
Về sau trên có nét ngang chỉ tế vật. Cuối cùng vẽ thêm hai chân hai
bên, theo Wang Hongyuan ba nét quanh chữ T là để cho cân bằng và cho đẹp
(!).Lưu ý chữ thị ở dạng chữ triện trông giống thiết diện bổ dọc của một chiếc trống đồng có Trục Thế Giới trên có để lễ vật.
Trong mộ của bà Tân Truy (Lady Dai) ở Mã Vương Đồi, Trường Sa, Hồ Nam có một tấm phướn đám ma hình chữ T diễn tả Tam Thế và Trục Thế Giới dùng để hướng dẫn hồn bà về Thượng Thế.
Hình của David Buck vẽ chi tiết tấm
phướn đám ma hình chữ T diễn tả Tam Thế có Trục Thế Giới để hướng dẫn
hồn bà Tân Truy về Thượng Thế ở trong ngôi mộ cổ ở Mã Vương Đồi,
Changsha (Trường Sa) ( Fagan, copied from Changsha Mawangdui Yihao Hanmu 1973).
Người Điền khi để các hình tượng liên quan tới tế lễ, hiến tế trên
mặt trống hay dùng trống làm vật đựng vỏ ốc sứ là dùng các vật này làm
Trục Thế Giới dùng như một vật dùng để dâng cúng vật hiến tế, lễ vật tức
một thứ bàn thờ Tam Thế, một thứ bàn thiên…Trục Thế Giới là một nét chính trong văn hóa Điền cũng thấy qua tục người Điền chôn người chết theo chiều thẳng đứng (4) giống như một số tộc ở Trung Nguyên Việt Nam dựng quan tài người chết thẳng đứng dựa vào một cây trụ hay một thân cây.
.Trưng bầy vật biểu của các tộc: như các hình bò, hươu, hổ…
.để dâng lễ vật như bò, dưới một góc cạnh các con bò này có thể là một thứ tế vật.
.Trưng bầy một cảnh linh thiêng, quí giá nào đó như
-Hiến tế
Nhiều vật đựng vỏ ốc sứ trên nắp diễn tả cảnh hiến tế người như đã thấy ở trên nơi phần trống đồng dùng làm vật đựng vỏ ốc sứ.
-Tế lễ.
Trên nắp vật đựng vỏ ốc sứ diễn tả cảnh tế lễ:
Một vật đựng vỏ ốc sứ trên nắp diễn tả một cảnh tế lễ phóng lớn, Viện Bảo Tàng Tỉnh Vân Nam (ảnh của Michelle Mai Nguyễn).
.một cảnh sinh hoạt nhân sinh như chiến trận, săn bắn, dệt vải…Như thế vật đựng vỏ sò nếu có dùng dưới hình dạng trống đồng hay nhiều trống đồng chồng lên nhau mang một khuôn mặt chính là Trục Thế Giới để dâng lễ vật tới Tam Thế.
Một câu hỏi cần phải trả lời nữa là các vật
đựng này thường đựng vỏ ốc sứ (nên tôi mới gọi là vỏ ốc sứ chứ không gọi
là vỏ sò). Như thế vỏ ốc sứ phải là một lễ vật chính, tối quan trọng,
tối thiêng liêng. Ốc sứ mang ý nghĩa biểu tượng gì?
Ốc sứ (nguồn http://arcticboy.arcticboy.com)
Ốc cowrie là một thứ ốc biển vỏ giống hệt như đồ sứ nên còn gọi là ốc
sứ porcelaina, miệng ốc trông giống âm hộ nên dân dã Việt Nam gọi là ốc
l… Hiện nay thường được hiểu theo nghĩa duy tục, ốc sứ dùng làm tiền,
báu vật thuở xưa. Cách giải thích vỏ ốc sứ dùng làm tiền, báu vật này
không thuyết phục được ở đây vì vào thời Vương quốc Điền đã đúc được các
đồ đồng tinh xảo như thế này không còn là thời kỳ dùng vỏ ốc vỏ sò làm
tiền nữa. Trong mộ các vị vua chúa, ngoài các vật đựng vỏ ốc sứ còn có
không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu, ngọc ngà quí hơn tiền, hơn của
báu bằng vỏ ốc vì thế vỏ ốc sứ không thể dùng làm tiền, của báu cho các
vị vua chúa Điền về bên kia thế giới để tiêu xài hay làm báu vật. Vỏ ốc
sứ ở đây phải mang một ý nghĩa biểu tượng triết thuyết, tín ngưỡng nhất
là khi chúng được đựng trong các vật thờ tự có hình thạp đồng, trống
đồng là những vật diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh, biểu tượng cho Vũ Trụ giáo.
Người Điền sống quanh Điền Trì lại tôn thờ một thứ ốc biển, như thế ốc
sứ phải là một thứ mang ý nghĩa thiêng liêng. Vậy ta phải hiểu ốc sứ
dưới lăng kính duy thần, mang ý nghĩa biểu tượng tín ngưỡng. Thật vậy ốc
sứ này thấy trong sự thờ phượng của nhiều tộc ở châu Á, Nam Đảo, Châu
Phi, châu Mỹ… Ốc sứ với phần lưng phồng lên trống như một cái bụng đang
mang thai và ở phía bụng, khe miệng mang hình ảnh âm hộ nên mang nghĩa
sinh tạo, tái sinh tức một nghĩa chính của vòng sinh tạo của Vũ Trụ
giáo. Đây là lý do ốc l… được dùng với ý nghĩa tín ngưỡng thấy khắp thế
giới. Hãy lấy một ví dụ ở một số tộc ở Ấn-Độ thờ ốc sứ. Phụ nữ ở một vài
tộc ở Ấn-Độ này đeo vòng cổ, hoa tai bằng ốc sứ hay hình ốc sứ để cầu
mắn sinh, được may mắn (may là hên vì được nhiều bổng lộc, phẩm vật từ trời ban cho và mắn
là đẻ nhiều). Như vậy ốc sứ mang nghĩa sinh tạo, tái sinh của Vũ Trụ
giáo mang hình ảnh nòng, âm, bộ phận sinh dục nữ đựng trong vật đựng
liên hệ với trống có một khuôn mặt nọc, trống, bộ phận sinh dục nam. Ốc
sứ âm đựng trong trống dương mang nghĩa nòng nọc, âm dương nguyên lý
căn bản của Vũ Trụ Tạo Sinh, của Vũ Trụ giáo. Vì thế mà trong Mộ Số 6
của vị vua Điền để các vật đựng vổ ốc sứ này là cầu chúc cho ông được
tái sinh hay về miền hằng cửu theo triết thuyết của Vũ Trụ giáo.- Trống đồng
Những chức vụ chính của trống đồng Điền:
.Một số tác giả cho rằng trống đồng được người Điền sử dụng trong chiến trận (4). Điểm này thích hợp với tính võ biền của Vương quốc Điền. Đây là một chức vụ đã muộn nghiêng về duy tục mà các trống của đại tộc Đông Sơn cũng có (nhà Trần dùng trống đồng làm trống trận).
.Hiện nay các nhà khảo cổ Trung Quốc xếp trống đồng vào mục âm nhạc (1). Đây là một quan niệm muộn, theo duy tục dùng trống đồng làm nhạc cụ trong các lễ hội và gần đây dùng nhiều trong văn hóa du lịch. Cách đánh trống hiện nay ở Nam Trung Hoa và Việt Nam cũng vậy. Chính thống cách đánh trống đồng phải theo đúng luật nòng nọc, âm dương là đầu âm, đầu hở, rỗng của dùi trống đánh (đâm) thẳng từ trên xuống dưới vào mặt trời dương ở tâm mặt trống cho âm dương giao hòa, khơi động lên quá trình Vũ Trụ Tạo Sinh như thấy trên trống đồng âm dương Hoàng Hạ (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).
.Trống dùng làm vật đựng vỏ ốc sứ như đã nói.
.Trống đồng Điền được dùng như một Trục Thế Giới, không còn là trống nữa. Các vật hiến tế, tế vật thường đứng trên hay chung quanh một chiếc hay nhiều trống nhỏ chồng lên nhau ở tâm trống dùng như một Trục Thế Giới.
Một vật đựng vỏ ốc sứ diễn tả một cảnh
hiến tế người có ba trống đồng nhỏ chồng lên nhau diễn tả Trục Thế
Giới thân trống nối dài (nguồn 1).
So sánh với cảnh hiến tế người có Trục Thế Giới đã thấy ở hình vật
đựng vỏ ốc sứ trên nắp có các hình tượng diễn tả một cảnh hiến tế (206
BC-25 AD, khu mộ Số 20, Trại Thạch Sơn) đã nói ở trên, ta thấy rõ trăm
phần trăm cây trụ do 3 trống nhỏ chồng lên nhau tương đương với Trục Thế
Giới.Một lần nữa cho thấy ở đây là trống đồng Điền có một khuôn mặt chính dùng làm Trục Thế Giới.
.Trống đống Điền không còn là trống mà là vật dùng làm đế trưng bầy một khía cạnh văn hóa hay sinh hoạt nhân sinh.
Một trống đồng Điền trưng bầy cảnh nhẩy múa hát ca. Mặt trống không có các trang trí và mặt trời thường thấy (nguồn 1).
Lưu ý mặt trống không có trang trí và hình mặt trời có nọc tia sáng
thường thấy mà chỉ có hình đĩa tròn ở tâm trống diễn tả chỗ để một vật
gì hay nếu nhìn theo Vũ Trụ giáo thì đây có thể là đĩa tròn diễn tả
không gian hoặc mặt trời nòng đĩa tròn.. Trống đồng mạ vàng.
Trống mạ vàng coi như là một vật thờ, một báu vật, một tài vật nhưng không còn dùng như một trống (bộ gõ) dùng trong giáo vụ (gõ thì bong hết lớp mạ vàng).
Trống mạ vàng (nguồn 1).
. Trống đồng mang văn hóa Điền.Một số những trống có trang trí mang bản sắc văn hóa Vương quốc Điền khác hắn với văn hóa của đại tộc Đông Sơn. Thường thường trống Điền loại này
-không giữ đúng đạo gốc Vũ Trụ giáo là còn giữ đúng nguyên lý nòng nọc, âm dương đề huề hoặc diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo một cách giản dị, bình dân, dễ hiểu như đã thấy ở trên.
-Các hình vẽ không theo lối vẽ quang tuyến Xray mà vễ theo lối tự nhiên (naturalistic) thông thường.
Một phần mặt trống Điền vẽ một cảnh sinh hoạt nhân sinh thường ngày với lối vẽ tự nhiên (nguồn: 3)
Hình trên cho thấy các hình vẽ theo lối tự nhiên không theo cách vẽ
quang tuyến, thấy rõ nhất là qua hình các con cò bay khác hẳn với các
hình cò trên trống của đại tộc Đông Sơn vẽ theo cái nhìn quang tuyến.-Các hình tượng, trang trí không theo qui ước lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, Vũ Trụ Tạo Sinh chính thống. Ví dụ:
./ Trên mặt trống có gắn tượng hình ba chiều nên không lật ngược lên được để dùng như một vật mang âm tính như cồng, nồi, vật đựng chất lỏng nên trống không còn mang nghĩa nòng nọc, âm dương. Hơn nữa khi lật ngược lên các tượng nổi gắn ở mặt sẽ bị gẫy và để lại những lỗ hổng trên mặt trống nên trống không còn dùng làm vật đựng chất lỏng được nữa.
./một trống còn giữ vóc dáng trống Cây Nầm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI (Heger I) có bốn tượng cóc/ếch.
Một trống Điền có bốn tược cóc/ếch nằm sát mặt trời, ở vùng đất dương và chuyển động theo duy âm tức theo chiều kim đồng hồ (nguồn 1).
Những con vật này thay vì nằm ngoài mép trống, vùng đất âm có nước
lại ngồi xa vào trong mặt trống gần mặt trời, điểm này không bao giờ
thấy ở trên các trống đồng nòng nọc, âm dương chính thống của đại tộc
Đông Sơn. Giả sử người Điền để các con vật này gần sát mặt trời tức ở
vùng đất khô, dương vì muốn diễn tả các con vật này mang dương tính, tức
chúng là những con cóc sống trên đất khô. Nhưng chúng lại chuyển động
theo chiều âm tức theo chiều kim đồng hồ thay vì thường thường con cóc
mang dương tính chuyển động theo duy dương tức theo chiều ngược với kim
đồng hồ, theo chiều mặt trời. Những con vật này chuyển động theo chiều
âm, mang tính âm tức con ếch. Rõ ràng con vật này mang hai khuôn mặt
ếch/cóc, nòng nọc, âm dương đối nghịch nhau, thật là chéo cẳng ngỗng.
Các tượng cóc ếch trên trống Điền cũng khác các tượng này trên trống của
đại tộc Đông Sơn như nhỏ con hơn, thế tục hơn, không có chữ viết nòng
nọc vòng tròn-que diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh…Điểm này cho thấy trống này không chính thống, thuộc loại trống muộn, trống rỏm, trống lai căng lấy từ một văn hóa khác nên không rành qui luật nòng nọc, âm dương.
./ Thuyền
Thường thuyền trên trống Điền là thuyền thế tục không có bóng dáng thuyền phán xét linh hồn như trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và các trống họ hàng, không thấy các thuyền có đầu và đuôi thuyền dưới dạng lưỡng hợp rắn- chim, nòng nọc, âm dương như trên trống của đại tộc Đông Sơn.
Ở một vài trống khác trên trụ trống có hình thuyền đi cùng với hình bò, chim. Thông thường thuyền chỉ có ở vùng nước trên tang trống. Đây là các diễn tả thuyền không theo qui ước, không chính thống.
Giả dụ ta cứ nhìn theo qui ước thì hình thuyền trên thân trống (trụ trống) tức Trục Thế Giới là thuyền đi lại được cả Tam Thế. Ở đây thuyền có người thuyền trưởng trần truồng là người cõi nước, cõi âm có một khuôn mặt biểu tượng cho cho Hạ Thế. Bò ở trên trụ trống tức ở trên Trục Thế Giới thưởng mang nghĩa của một tế vật có thể dâng cúng tới Tam Thế nhưng nhìn theo Vũ Trụ Tạo Sinh thì bò ở đây có thể dùng làm biểu tượng cho Trung Thế và chim ở đây (đáng lý ra phải là chim bay) biểu tượng cho Thượng Thế. Như thế chim, bò, thuyền trên trụ trống biểu tượng cho Tam Thế. Ta thấy theo cách diễn tả không chính thống, kiểu dân dã, “bình dân học vụ” không theo qui ước này cho biết thân trống (trụ trống, eo trống) là một phần Trục Thế Giới thông thương Tam Thế. Tuy nhiên, nếu đúng là như vậy, thì các diễn tả bình dân học vụ rất muộn này có một điểm hữu ích là nó xác thực cho thấy trăm phần trăm thân trống là Trục Thế Giới đúng như cách gỉải phẫu trống đồng trong chương Cơ Thể Học Trống Đồng của đại tộc Đông Sơn của tôi (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).
Đây là trống Điền kiểu của đại tộc Đông Sơn nhưng đã muộn và không chính thống.
./Trên chân trống có hình thú, chim nhưng theo nguyên tắc Hạ Thế là cõi âm, tăm tối thường không có trang trí gì cả.
-Hình tượng và chữ viết (hoa văn) sai lệch ngữ pháp của chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.
Trên mặt một trống có hình người cưỡi ngựa đi cùng với các tượng cóc ếch hoàn toàn cọc cạch. Người cưỡi ngựa diễn tả hình tượng võ biền trong khi tượng cóc ếch diễn tả sấm mưa (thường là bốn con diễn tả chuyển động bốn phương trời) hay mang nghĩa sinh tạo (nếu là hai con cõng nhau hay 6 con).
Ở trống trên ta thấy các vành có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình nọc mũi mác (mũi tên, răng cưa, răng sói) bên trong có rất nhiều nọc chấm thay vì trên các trống của đại tộc Đông Sơn bên trong chỉ có một chấm (dương nguyên tạo), hai chấm (lửa) và ba chấm hình tháp (đất dương). Phần lớn người thú vật, các “hoa văn” trên trống Điền có rất nhiều chấm thay vì các chữ viết nòng nọc vòng tròn-que.
-Trống có các thú, chim biểu của Vương quốc Điền mà ở các trống của đại tộc Đông Sơn không có như chim bìm bìm, hổ, báo, chó, thỏ, cây cỏ… và thường không có hình cò bay, chim biểu của, bầu trời, khí gió ứng với khuôn mặt Hùng Vương bầu trời Tạo Hóa.
-Trên một số trống có các tượng nổi trên mặt và ở tâm trống nên trống hoàn toàn không còn là trống nữa mà chỉ là một vật dùng làm vật biểu tượng.
-Trống thường diễn tả các cảnh thế tục của giới vương quyền hay nhân sinh.
. . . . . .
.Trống đồng còn giữ nguyên vẹn văn hóa của đại tộc Đông Sơn.
Những trống này giữ đúng truyền thống của những trống của đại tộc Đông Sơn. Những loại trống này theo thể loại trống Việt (Yue style) và thường là Nguyễn Xuân Quang VI hay Heger I.
Điểm chính yếu nhất là mặt trống còn có hình cò bay.
Trống đồng giống hệt trống của đại tộc Đông Sơn trên mặt có hình cò bay (nguồn 1).
Đây có thể là loại trống do tước đoạt được của các tộc trong Bách
Việt qua chiến lợi phẩm, có được do cống vật, giao thương hay do một tộc
có gốc Bách Việt trong Vương quốc Điền chế tạo ra. Điểm này có thể thấy
qua hình vật chim cắt thấy trên vật đựng vỏ ốc sứ và chiếc rìu đầu chim
mỏ cắt ở trên. Chim cắt là chim Rìu, chim Việt, chim biểu của Viêm Đế,
Viêm Việt. Chim cắt cũng thấy trên trống Duy Tiên và trên đuôi thuyền ở
trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và các trống họ hàng. Hình ảnh rắn đơn
giản cũng thấy trên trống đồng Điền ở đầu các mũi thuyền như ở trên các
trống của đại tộc Đông Sơn muộn. Không có dạng lưỡng hợp chim trong
miệng rắn như ở đầu mũi thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.Với chim cắt và rắn nước, như thế Vương quốc Điền có một tộc thuộc ngành Viêm Đế-Thần Nông. Tộc này có thể đã làm ra các trống theo thể loại trống Việt thấy trong các trống Điền.
Tóm lại nhìn tổng quát riêng về trống đồng ở địa bàn Vương quốc Điền có hai loại trống: một là thuộc loại Điền (Dian Style) thấy nhiều ở Vân Nam, Quí Châu, Tứ Xuyên và Hồ Nam, trong đó miền trung tâm Vân Nam và miền tây Quảng Tây có nhiều nhất. Trống Điền thường nhỏ, đường kính mặt trống nhỏ hơn tang trống.
Trống đồng Điền và những vật đựng liên hệ với trống đồng mang sắc thái Điền thường diễn đạt theo cách “du mục”, đơn giản, dân gian, đôi khi duy tục, đôi khi bình dân học vụ, không tinh tế, không bác học, không chính thống, không qui ước theo qui luật của nòng nọc, âm dương lưỡng hợp, theo Vũ Trụ giáo, theo Dịch lý như trống của đại tộc Đông Sơn. Trống Điền thường là trống khá muộn.
Hai là có một ít trống giống trống của đại tộc Đông Sơn tức theo kiểu Việt (Yue style). Những trống này có được có thể là do cướp đoạt qua chiến lợi phẩm qua cống vật, giao thương hay do các tộc trong Vương quốc Điền vốn có gốc Bách Việt chế tạo ra.
Trống thuộc loại trống kiểu Việt thường lớn, mặt to hơn tang và thân với kỹ thuật đúc và trang trí tinh vi hơn. Tuy nhiên những trống kiểu Việt thấy trong địa bàn Vương quốc Điền thường là trống khá muộn không tinh tế, không tuyệt kỹ lắm và không diễn tả trọn vẹn triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh như trống đồng âm dương Ngọc Lũ I.
Như thế khó có thể nói rằng trống đồng Điền đã là nguồn cội ảnh hưởng tới trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn như các học giả Trung Quốc hiện nay rêu rao. Những trống tôi nhìn thấy ở Viện Bảo Tàng Vân Nam không có một trống nào so sánh được với trống đồng âm dương Ngọc Lũ I và những trống họ hàng.
.Văn hóa đồ đồng Điền và văn hóa đồ đồng của đại tộc Đông Sơn.
Văn hóa đồ đồng Điền có thể ảnh hưởng tới các đồ đồng của các tộc Bách Việt lân bang với Vương quốc Điền hay cũng có thể xuôi dòng sông Hồng đi xuống ảnh hưởng lên văn hóa Đông Sơn ở vài nơi ở miền bắc Việt Nam hoặc cũng có thể những đồ đồng Điền đã được mang ra ngoài lãnh thổ Điền qua giao thương hay đi theo chân những người Điền vì một lý do gì đó phải bỏ xứ ra đi… Ở Lào Cay tại biên giới Việt-Hoa vào năm 1993-94 đào tìm thấy 19 trống đồng ở trên bờ sông Hồng thì có 6 chiếc thuộc loại trống Điền (Phạm 1997;45-59) và ở Hưng Yên đào tìm được trống Dong Xa vào năm 1997 thuộc loại trống Điền trọn vẹn nhất thấy ở Việt Nam cũng ở bên bờ sông Hồng. Chỗ tìm thấy trống cách một quan tài gỗ chừng 700m. Những đồng tiền kim loại Trung Hoa trong quan tài cho thấy mộ vào khoảng thế kỷ thứ nhất Trước Tây Lịch (2). Ngoài ra các đồ đồng ở vùng Sông Cả cũng có hình bóng văn hóa đồ đồng Điền (4).
Xa hơn nữa trống Đìền cũng thấy ở Thái Lan, Myanma (Miến Điện) với nguồn gốc không rõ.
Trống Beelaerts, Chiengmai, Thái Lan (nguồn 3).
Thân trống này có hình bò kiểu bò Điền và có các vành có chữ viết
nòng nọc vòng tròn-que là ba vòng tròn đồng tâm có nọc chấm thường thấy ở
trống Điền.Tuy nhiên giao lưu văn hóa phải nhìn hai chiều (chứ không phải chỉ một chiều như các nhà khảo cổ học Trung Quốc hiện nay rêu rao). Hiển nhiên văn hóa Đông Sơn cũng có thể ảnh hưởng lên văn hóa đồ đồng Điền, trống đồng Điền qua các tộc Bách Việt lân bang với Vương quốc Điền ở Vân Nam hay trực tiếp từ Bắc Việt Nam ngược sông Hồng đi lên.
So sánh ta thấy về vật tổ, ngoài những chim thú thấy nhiều mang hình bóng vật tổ riêng của văn hóa Điền như chim bìm bìm, chim cốc, hổ, báo, thỏ… không thấy trên trống Đông Sơn, ta cũng thấy một số các chim thú khác như chim cắt, chim trĩ, hươu, bò, rắn, cóc/ếch thấy trên trống đồng Điền thì cũng thấy trên đồ đồng Đông Sơn. Dĩ nhiên chúng có những nét riêng của mỗi nền văn hóa. Xin lấy một vài ví dụ:
.Chim cắt, chim biểu của ngành mặt trời Viêm Đế.
Như đã thấy chim cắt biểu tượng cho thần mặt trời Viêm Đế ở rìu Việt và ở vành chim bay trên một vật đựng vỏ ốc sứ Điền. Chim cắt cũng thấy trên trống Duy Tiên, ở đuôi thuyền trên trống Ngọc Lũ I và các trống họ hàng. Tuy nhiên ở những đồ đồng Điền khác ta cũng thấy chim biểu của mặt trời là con chim ó hay diều hâu mang tính võ biền du mục.
Hình chim thú trên đồ đồng Điền trong đó có hình chim ó hay diều hâu có hình mặt trời trên người, Viện Bảo Tàng Tỉnh Vân Nam (ảnh của tác giả).
Như thế ta thấy rõ chim cắt của Điền giống như thấy trong văn hóa
Đông Sơn là của văn hóa nông nghiệp của Bách Việt. Nó có thể là của phần
văn hóa nông nghiệp của Điền hay Điền đã lấy hoặc bị ảnh hưởng của văn
hóa nông nghiệp Bách Việt. Còn chim mặt trời ó, diều hâu là của phần văn
hóa du mục võ biền của Điền..Chim trĩ
Như đã thấy ở trên, chim trĩ ở tang trống của trống đồng ở dưới của một vật đựng vỏ ốc sứ Điền biểu tượng cho không gian, bầu trời gió ứng với ngành Nòng Thần Nông tương đương với các chim trĩ thấy trên mái nhà ở trống Ngọc Lũ I. Ở đây các con chim trĩ trên đồ đồng Điền chứng thực rõ ràng, chỉ cho biết các con chim trĩ trên một căn nhà mái cong ở trống đồng âm dương Ngọc Lũ I là căn nhà đó thuộc đại tộc gió, thiếu âm (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á) .
.Hươu sừng
Như đã thấy hình khắc và tượng nổi ba chiều hươu sừng trên thân trống của một vật đựng vỏ ốc sứ và nhiều hình tượng hươu sừng khác trong các cảnh săn bắn trong đồ đồng Điền. Ở đây ta thấy hình ảnh hươu thường mang hình ảnh duy tục trong khi hình hươu trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I, Miếu Môn I, Phú Xuyên đều mang tính cách thú biểu, vật tổ và mang triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á).
.Bò sừng
Một trong những điểm tiêu biểu nhất của văn hóa Điền là bò rất được tôn thờ. Ta cũng thấy bò trên thân trống Đông Sơn như trống Đồi Ro và một hai trống khác.
Hình bò trên thân trống Đồi Ro trên người có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que (Nguồn Nguyễn Văn Huyên).
Trên trống của đại tộc Đông Sơn bò ở thân trống có thể là một con thú
hiến tế vì như đã biết thú vật trên trụ trống tức Trục Thế Giới có một
khuôn mặt là tế vật. Dĩ nhiên văn hóa của đại tộc Đông Sơn cũng có sự
hiến tế. Hơn nữa bò không phải là thú biểu của văn hóa của đại tộc Đông
Sơn sông nước nông nghiệp (thường phải là trâu) nên bò dùng làm tế vật
là chuyện hợp lý. Ở một trống đồng Điền ở trên ta đã thấy có cảnh đâm bò
hiến tế. Bò làm tế vật có ở cả hai nền văn hóa nên có thể không phải ai
lấy của ai. Tuy vậy, nếu ta so sánh hình bò Điền và hình bò Đông Sơn ta
thấy có nhiều chi tiết khác nhau. Ở trống Đồi Ro, trên người bò có viết
rất nhiều chữ viết nòng nọc vòng tròn-que trong khi bò trên trống Điền
chỉ có những chấm (nọc dương). Như thế rõ ràng hai hình bò có thể mang
nghĩa khác nhau trong việc dùng tế lễ hay cách diễn tả khác nhau theo
văn hóa khác nhau. Nếu nhìn dưới lăng kính Vũ Trụ Tạo Sinh, bò của đại
tộc Đông Sơn có nọc chấm, nọc que và vòng tròn có chấm hay chấm vòng
tròn còn mang ý nghĩa nòng nọc, âm dương của cả họ, cả hai ngành trong
khi bò Điền chỉ có chấm nọc chỉ mang nghĩa ngành nọc dương.Về thuyền, như đã thấy thuyền ở trên vùng nước ở tang trống trên một vài trống đồng Điền giống như những thuyền ờ trên tang trống của đại tộc Đông Sơn. Tuy nhiên thuyền trên trống Điền chỉ là những thuyền mang ý nghĩa muộn như dưới hình thức thuyền đua trong lễ hội nước, thuyền dùng trong phương tiện chuyển chở. Những thuyền có mang triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo thì được diễn tả rất thô thiển, không theo qui ước, sai luật nòng nọc, âm dương, rất rỏm, mang tính cách bắt chước nhưng không tới.
Hình thuyền trên một trống đồng Điền (nguồn 1).
Ví dụ hình thuyền trên trống nảy có mũi hình thủy quái trông như
miệng cá kiếm, cá sấu… biểu tượng cho nước trong miệng có hình chim đứng
biểu tượng cho lửa, ý muốn diễn tả lưỡng hợp nòng nọc, âm dương (?).
Nhưng ta thấy rõ cách diễn tả này rất bình dân học vụ so với hình chim
lao vào miệng rắn nước ở đầu mũi thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ
I. Ở đây thuyền mang hình bóng một chiếc thuyền đua trong một lễ hội
nước không phải là thuyền phán xét linh hồn trong Vũ Trụ giáo. Ở đuôi
thuyền trước cũng có hình chim thành thử hình chim trong miệng mũi
thuyền hình thủy quái chưa hẳn đã mang ý nghĩa lưỡng hợp trong Vũ Trụ
giáo…Ngược lại ta không thấy những nét đặc thù của văn hóa Điền như du mục, võ biền, hiếu chiến với cảnh cưỡi ngựa, kỵ binh, săn bắn, chăn nuôi, hiến tế người một cách tàn bạo, man rợ… trên đồ đồng của đại tộc Đông Sơn. Điều này cho thấy văn hóa đồ đồng của đại tộc Đông Sơn nghiêng nhiều về duy lý, trí tuệ, triết thuyết không bị ảnh hưởng bởi văn hóa đồ đồng Điền mang tính du mục, võ biền, duy tục.
Như thế trống đồng Điền mang một sắc thái riêng. Điều này cũng thấy rõ qua sự phân loại trống của các nhà khảo cổ Trung Quốc. Họ chia trống đồng nam Trung Hoa ra làm hai hệ thống: hệ Vân Nam- Quảng Tây (có loại trống mang mầu sắc Điền) và hệ Quảng Tây-Quảng Đông (nghiêng nhiều về trống Lạc Việt Zhuang).
Tóm lại, riêng về tương quan giữa trống đồng của Vương quốc Điền và của đại tộc Đông Sơn, ta thấy trống đồng Điền thuần túy là một tộc mang sắc thái riêng và trống của đại tộc Đông Sơn mang một sắc thái riêng. Trống Điền và trống Việt của đại tộc Đông Sơn là hai loại trống khác nhau.
Các học giả Trung Quốc ngày nay và Watson trước đây (1970: 60) cho rằng tất cả các loại trống ở Đông Nam Á đều xuất phát từ Vân Nam. Các khảo cứu khảo cổ học ở Việt Nam và nhiều nơi khác cho thấy điều này gần như hoàn toàn không đúng như vậy (Glover and Syme 1993; Ha 1980, 1994, Higham 1996, 2002; Mc Connell and Glover 1990; Pham 1996, 2003; Pham et al 1987; Sorensen 1979, 1988). Tôi cũng đã chứng minh như vậy (xem Trống Đồng Của Đại Tộc Việt hay của Trung Hoa?). Như đã thấy trống Điền không thể là nguồn gốc của trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Những trống đồng loại Việt của đại tộc Đông Sơn thấy trong các ngôi mộ cổ Điền là những trống nhập cảng từ miền Bắc Việt Nam. Những trống này thường là trống khá muộn. Ambra Calo cũng xác nhận điểm này: “The Dong Son drums found in the Dian burials are likely to have been imported from the Dong Son region of north Vietnam. The Dong Son drums in the Dian burials correspond to the Dong Son types A IV, B II-III” in the Vietnamese classification” ( Pham et al, 1987) (Trống Đông Sơn tìm thấy trong những nơi chôn cất Điền có lẻ thật ra đã dược nhập cảng từ miền Đông Sơn, Bắc Việt Nam. Trống Đông Sơn trong những nơi chôn cất Điền đáp ứng với loại Đông Sơn A IV, B II-II) trong cách phân loại của Việt Nam (2). Loại trống A IV, B II-III là trống khá muộn.
Về trống đồng, tôi sẽ khai triển thêm về chi tiết trong các bài viết về Trống Đồng Nam Trung Hoa sắp tới.
Kết Luận
Văn hóa đa tộc Vương quốc Điền
Qua các đồ đồng Điền ta thấy Vương quốc Điền có nhiều tộc với sự hỗn hợp của nhiều nền văn hóa trong đó văn hóa du mục và nông nghiệp là hai nét chính. Nền văn hóa sông nước nông nghiệp có lẽ là nền văn hóa bản địa, văn hóa gốc của Vương quốc Điền vì họ sống quanh vùng Điền Trì (Dianchi). Hán ngữ Điền 滇 (國) viết với bộ thủy cho thấy họ có gốc nước sống quanh hồ Điền. Các đồ đồng và trống Điền thường có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que hình hai vòng tròn có chấm (nước dương) hay ba vòng tròn có chấm. Nếu đọc ba vòng tròn có chầm thì có nghĩa là Khôn dương. Nếu đọc theo hai vòng tròn và vòng tròn có chấm (có một nghĩa là mặt trời sinh tạo) thì là mặt trời nước sinh tạo. Văn hóa du mục, võ biền có thể có gốc từ một tộc Việt ngành Lửa Viêm Việt vì người lập quốc Điền là Trang Kiểu vốn là Sở Việt hay du nhập từ các vùng lân bang phía tây Vân Nam hay từ “phương xa” vào.
Sau 500 năm, Vương quốc Điền biến mất, không biết họ đi đâu, không để lại một dấu vết. Điểm này cho thấy văn hóa Điền phần du mục, võ biền đã bị chùi xóa đi khi Vương quốc Điền xụp đổ bởi sự vùng dậy của chính phần văn hóa sông nước nông nghiệp của Vương quốc Điền và của Đại Tộc Việt chung quanh. Tộc Điền vẫn ở đó không đi đâu cả, họ chuyển qua văn hóa nông nghiệp chỉ là chuyển đổi thể chế văn hóa mà thôi. Giới lãnh đạo có gốc võ biền hay du nhập văn hóa du mục ngoại lai vào khi bị dân bản địa có văn hóa nông nghiệp tiêu diệt thì văn hóa võ biền du mục biến mất theo.
Các nhà khảo cổ học Trung Quốc gần đây tìm thấy dưới đáy Điền Trì dấu tích của những tòa nhà cổ và một số cổ vật Điền cho rằng một trận động đất lớn đã xẩy ra và chôn vùi Vương quốc Điền xuống đáy hồ. Điều này khó mà tin được.
Văn hóa Điền và văn hóa Bách Việt có những điểm chung:
Như đã thấy văn hóa Điền và Bách Việt có nhiều điểm giống nhau:
Vũ Trụ giáo
Đồ đồng Điền và Đông Sơn đều có những vật diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Vũ Trụ giáo.
Riêng về trống đồng nòng nọc, âm dương và các vật biến cải từ trống đồng ta thấy Vương quốc Điền cũng diễn tả Vũ Trụ giáo nhưng Vũ Trụ giáo trong trống Điền diễn tả không chính thống, duy tục. Vương quốc Điền chính yếu chỉ dùng trống đồng lấy theo những khuôn mặt võ biền của trống đồng nòng nọc, âm dương trong triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh như:
-Dùng làm vật đựng dưới hình thứcTrục Thế Giới để dâng lễ vật, trong đó có sự hiến tế người dâng cúng thần mặt trời, cho thần chiến tranh, tôn vinh chiến thắng với cảnh chiến trận, cảnh tàn sát kẻ thù…
Trống đồng dùng như một Trục Thế Giới cũng thấy trong trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Như đã biết thân trống là một phần Trục Thế Giới.
Ngoài ra cả trống đồng cũng dược dùng như một Trục Thế Giới đi kèm với ý nghĩa sinh tạo, tái sinh của Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống). Ví dụ trống đồng dùng mai táng tro than hay đầu người chết và trống đồng lớn hay dưới dạng trống minh khí dùng làm vật tùy táng. Các vật này ngoài nghĩa sinh tạo, tái sinh của Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) còn dùng với nghĩa Trục Thế Giới để đưa hồn người chết về Thượng Thế [như đã thấy thiết diện đứng của trống đồng nòng nọc, âm dương có hình chữ T mang ý nghĩa Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) và Trục Thế Giới].
Điểm khác biệt là người Điền đã dùng khuôn mặt Trục Thế Giới của trống theo duy tục dưới hình thức các vật đựng vỏ ốc sứ hay các trống minh khí chồng lên thành cột trụ hay làm chân đế cho Trục Thế Giới.
-Dùng trống đồng như một biểu tượng sức mạnh quân sự, oai quyền như các cảnh cưỡi ngựa, kỵ binh.
-Dùng trống đồng nòng nọc, âm dương như một thứ trống trận để báo tin hay thúc quân.
-Dùng trống đồng như một vương biểu, tài sản quốc gia nên mới mạ vàng trống đồng.
-Những trống còn giữ truyền thống của đại tộc Đông Sơn thường là trống khá muộn hay đã không theo qui ước chính thống.
-không có chim nông, không thường thấy bóng dáng cò. Đây là hai chim biểu chính của ngành nòng âm Thần Nông. Họ có chim cắt, chim trĩ mang dương tính ăn khớp với khuôn mặt võ biền thích hợp với ngành nọc dương Viêm Đế.
Chúng ta rút tỉa được gì từ khảo cổ vật của Vương quốc Điền?
Sau đây là những điểm chính yếu bằng vàng rất hữu ích ta rút tỉa ra được từ đồ đồng Điền:
1. Truyền thuyết và cổ sử Việt
Đồ đồng Điền đã giúp kiểm chứng lại những khám phá của tôi về truyền thuyết và cổ sử Việt và cho thấy rất đúng:
-Chim cắt
Chim cắt là vật tổ tối cao của ngành nọc dương, mặt trời thái dương Viêm Đế tức Viêm Việt đối ứng với chim nông của ngành nòng âm không gian Thần Nông tức Thần Việt của đại tộc Việt (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
Vành chim Cắt như đã thấy ở trên một vật đựng vỏ ốc sứ của Vương quốc Điền biểu tượng cho Thượng Thế và rìu Việt “yue ax” đầu chim cắt xác thực chim cắt là chim Việt, vật tổ tối cao ở cõi tạo hóa, sinh tạo của ngành Nọc thần mặt trời Viêm Đế của Đại Tộc Việt, Bách Việt (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).
-Rìu Việt
Qua khảo cổ vật của Vương quốc Điền ta thấy và sờ được cây Rìu Việt “yue ax” đầu chim mỏ cắt.
Hình vẽ chi tiết Rìu Việt “yue ax” đầu chim mỏ cắt, đầu hai phần mỏ có “phụ đề” hai lưỡi rìu nhỏ nhấn mạnh cho biết là chim mỏ rìu, phần sau đầu biểu tượng cho mũ sừng. Con mắt mang hình ảnh mặt trời (nguồn 1).
Lưu ý với hai lưỡi rìu nhỏ ở mỏ chim thì rìu này không thể dùng như
một dụng cụ để chặt, đẽo thông thường mà đây phải là một thứ rìu thờ,
rìu biểu tượng cho một tộc, một đại tộc, một ngành Rìu tức Đại Tộc Việt,
Bách Việt.Đúng trăm phần trăm chim cắt là chim Rìu, chim Việt, chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế. Viêm Đế có họ Khương (Sừng) có chim biểu là chim mũ Sừng, Mường ngữ gọi là chim Khướng (biến âm của Khương) và Anh ngữ gọi là Hornbill (chim mỏ sừng). Việt có một nghĩa là Rìu thì phải hiểu Rìu Việt là Rìu mỏ chim Rìu, chim Cắt. Việt là một đại tộc của thần mặt trời Viêm Đế. Việt là Rìu, là rìu chim Cắt, chim Rìu.
– Việt là đại tộc Người Mặt Trời Thái Dương.
Việt là một đại tộc của thần mặt trời Viêm Đế. Như thế ta suy ra ngay Việt là đại tộc Người Mặt Trời Thái Dương ngành Viêm Việt thần mặt trời Viêm Đế. Các cách giải thích khác của từ Việt không liên hệ tới Rìu Việt chim cắt, chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế đều theo nghĩa suy diễn từ chương và sai lệch.
Người Việt là Người Mặt Trời ngành thần mặt trời Viêm Đế.
– Vương quốc Điền liên hệ với Viêm Việt ngành Viêm Đế.
Vương quốc Điền có rìu Việt “yue ax” dầu chim cắt và vật tổ chim cắt như thế họ có một tộc Viêm Việt hay có thể họ vốn gốc là một tộc của Đại Tộc Việt (người lập quốc Điền là Trang Kiểu người Sở Việt). Nếu đúng như thế, tộc Viêm Việt này làm liên tưởng tới 50 Lang Hùng theo mẹ Âu Cơ lên núi thuộc ngành Nọc Lửa Viêm Đế mang tính võ biền. Có một điểm rất đáng chú ý dù cho đây có thể chỉ là trùng hợp đi nữa là Hùng Vương ngành Nọc Viêm Đế bị An Dương Vương ngành Nòng Thần Nông tiêu diệt và để lại rất ít chứng tích lịch sử ngoài trống đồng nòng nọc, âm dương. Điểm này giống hệt như Vương quốc Điền đã biến mất một cách bí mật chỉ còn thấy qua các đồ đồng Điển. Phải chăng Vương quốc Điền võ biền (dính dáng với Hùng Vương ngành Lửa Viêm Việt Viêm Đế) đã bị thay thế bởi một tộc Việt thuộc ngành Nòng Nước (An Dương Vương ngành Nước Nông Việt Thần Nông) nên văn hóa Vương quốc Điền võ biền bị văn hóa nông nghiệp thay thế.
-Truy tìm dấu tích Hùng Vương ngành nọc Lửa Viêm Đế.
Dù gì đi nữa, vì cùng ngành Viêm Đế, ta có thể dùng các chứng cứ khảo cổ học của Vương quốc Điền để làm một thứ kim chỉ nam truy cứu Hùng Vương ngành Lửa thần mặt trời Viêm Đế.
Trường hợp, nếu không phải là một tộc Việt ngành Lửa thì Vương quốc Điền vốn là một tộc của Bách Việt ngành Nước có văn hóa nông nghiệp về sau vì địa thế ở “ngã tư quốc tế” nên họ hội nhập văn hóa du mục, võ biền hay bị xâm chiếm bởi một tộc du mục võ biên khác. Yếu tố du mục võ biền, hiếu chiến trở thành ngự trị trong văn hóa Vương quốc Điền.
Ngược lại nếu họ là một tộc riêng thì họ đã chịu ảnh hưởng hay giao lưu văn hóa với các tộc Bách Việt sống vậy quanh họ.
……
2. Về trống đồng
Trống Điền cho thấy:
-Trống đồng Điền có hai thể loại Điền và Việt. Trống Điền mang sắc thái của trống của đại tộc Đông Sơn thường là trống khá muộn và du nhập từ các vùng Đông Sơn vào, không phải do Điền làm ra.
-Trống đồng của Vương quốc Điền đã kiểm chứng, xác thực lại cho thấy sự Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á của tôi đúng trăm phần trăm. Trống đồng là trống nòng nọc, âm dương diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh, là trống diễn tả triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh, là trống biểu của Vũ Trụ giáo, là bộ Dịch đồng và là bộ sử đồng của Đại Tộc Việt, Bách Việt. Trống Nguyễn Xuân Quang VI hay Heger I là trống Cây Nấm Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) trong có Trục Thế Giới (thân trống kéo dài theo hai chiều)…. Sự phân loại trống đồng của tôi theo Vũ Trụ Tạo Sinh trong đó trống Nguyễn Xuân Quang VI tức Heger I là trống Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) đúng trăm phần trăm. Vật đựng vỏ ốc sứ hình trụ ống xác thực cho thấy trống đồng có loại hình trụ ống Nguyễn Xuân Quang II giống vật đựng này biểu tượng cho cực dương/tượng Lửa (trong khi trống moko của Nam Dương hình trụ có eo ở giữa mang âm tính của tộc Nước mang hình ảnh của búa thiên lôi hình trụ).
Ta đã thấy rất rõ trống đồng Điền cũng diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh. Nhưng người Điền đã dùng trống đồng theo nghĩa duy tục, nghiêng nhiều về văn hóa du mục, lấy trống đồng dùng làm một chức vụ chính là Trục Thế Giới để dâng cúng tế vật qua các vật đựng vỏ ốc sứ và dùng trống đồng làm chân các Trục Thế Giới hay vật kê các tế vật hay vật, người hiến tế. Người Điền nhìn trống đồng nòng nọc, âm dương theo diện duy tục, hiến tế trong khi người Đông Sơn dùng trống nặng về ý nghĩa triết thuyết, bác học.
-Trống đồng nòng nọc, âm dương là trống của Bách Việt toàn gồm vùng Đông Nam Á, Nam Trung Hoa và ngay cả những tộc ở lân bang với Bách Việt mà chịu ảnh hưởng của văn hóa trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Mỗi tộc có trống đồng nòng nọc, âm dương diễn tả theo sắc thái, bản thể của tộc mình [như liên bang Văn Lang, Đại Tộc Việt có trống Đông Sơn có hình Cây Nấm Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) gồm bốn tộc chính là tộc Nước có trống Nước Lạc Việt ở Nam Trung Hoa ; tộc Gió có trống Gió Karen; tộc Lửa có trống Lửa moko Nam Dương, hay dưới hình thức các vật đựng vỏ ốc sứ hình trụ ống của Điền; tộc Đất có trống Đất ở các vùng cao Việt Nam…]. Các tộc nằm ngoài chịu ảnh hưởng văn hóa Đông Sơn có trống đồng có pha thêm bản sắc địa phương của tộc đó như điển hình là tộc Điền. Ngoài ra trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn cũng thay đổi tùy thời điểm làm ra trống.
-Trống đồng Điền được các nhà khảo cổ Trung Quốc hiện nay ngang nhiên phổ biến cho thế giới biết là nguồn cội của trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn, không thể nào thuyết phục được.
Trống Điền mang nặng sắc thái văn hóa du mục, võ biền của văn hóa Điền thuộc hệ thống trống Quảng Tây-Vân Nam chỉ là một chi, một tộc trống biểu tượng cho một tộc, một chi tộc không thể nào có thể đẻ ra hay có ảnh hưởng nhiều tới trống Đông Sơn biểu tượng cho cả liên bang ứng với liên bang Văn Lang Bách Việt.
Chỉ riêng một sự kiện là dùng trống đồng để diễn tả các nét văn hóa võ biền du mục của mình và dùng mặt trống để trưng bầy các cảnh của đời sống phàm tục như dệt cửi, ca hát, săn bắn… là coi thường sự thờ phượng mặt trời linh thiêng, đạo mặt trời, chủ thể của trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Vì họ lấy trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn nên mới coi thường đạo mặt trời của đại tộc Đông Sơn. Họ biến cải trống đồng thành những vật đựng giống như người Tây Ban Nha đã xây cất các nhà thờ Thiên Chúa giáo chồng lên các đền đài thờ mặt trời của thổ dân Hoa Kỳ.
Một điểm nữa trống đồng không quan trọng hay chính yếu trong văn hóa Điền bằng chứng cụ thể là trong ngôi Mộ Số 6 của một vị vua Điền không để trống đồng mà chỉ để vật đựng vỏ ốc sứ biến cải từ trống đồng.
Hơn thế nữa khảo cổ học cũng cho thấy văn hóa Đông Sơn nối tiếp văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun chứ không phải một sáng một chiều đột nhiên xuất hiện, nghĩa là lấy từ bên ngoài, từ văn hóa Điền.
Đồ đồng Điền ảnh hương lên văn hóa đồ đồng Đông Sơn?
Còn vấn đề các học giả Trung Quốc cho rằng văn hóa đồ đồng Điền ảnh hưởng nên văn hóa đồ đồng của đại tộc Đông Sơn như đã thấy không vững và không thuyết phục nhiều. Ảnh hưởng văn hóa khi có sự giao lưu văn hóa phải hai chiều. Văn hóa của đại tộc Đông Sơn cũng có thể đã có ảnh hưởng lên văn hóa đồng Điền.
Như đã thấy rất rõ trống đồng mang sắc thái Đông Sơn không phải của Điền mà du nhập từ nguồn Đông Sơn. Người Điền đã lấy trống đồng của đại tộc Đông Sơn dùng vào các chức vụ có chủ đích văn hóa của mình. Người Điền lấy trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn làm vật đựng, đồ kê, đã lấy ý nghĩa của Trục Thế Giới của trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn làm Trục Thế Giới để dâng cúng tế vật, làm báu vật (mạ vàng)… Điểm này giống như Thiên Chúa giáo lấy đền đài của thổ dân châu Mỹ biến đổi thành nhà thờ hay xây cất nhà thờ trên nền móng của các đền đài của thổ dân. Cũng giống như người Tây phương lấy tượng Phật dùng để trang trí trong vườn hay nhà cửa…
Hình tượng ba chiều gắn vào vật đựng vỏ ốc sứ hay trống đồng đòi hỏi một kỹ thuật đã tiến đã cao so với các trang trí khắc lên đồng, lên sáp. Nói một cách khác những đồ đồng gắn các hình tượng ba chiều có niên đại muộn hơn các loại có trang trí khắc vào mặt đồng. Ngoài ra các hình khắc trong đó có chữ viết nòng nọc vòng tròn-que diễn tả triết thuyết Vũ Trụ Tạo Sinh còn những hình tượng Điền chỉ diễn tả khía cạnh duy tục của đời sống. Như thế đồng đồng Điền đã có sau đồ đồng của đại tộc Đông Sơn.
Sự hiện diện của một số trống Đông Sơn Cây Nấm Vũ Trụ Nguyễn Xuân Quang VI hay Heger I ở Nam Trung Hoa có thể giải thích là ngoài các trống biểu chính của các tộc, các chi tộc ra, mỗi tộc vẫn còn phải tôn thờ trống biểu của liên bang ví dụ như California có cờ biểu của California hình con gấu nhưng vẫn phải có cờ hoa có sọc và sao, cờ biểu của liên bang Hoa Kỳ.
Dù gì đi nữa thì trống đồng và các vật đựng vỏ ốc sứ dùng trống đồng hay biến cải trống đồng của Vương quốc Điền đã giúp tôi kiểm chứng lại sự Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á của tôi và cho thấy rất chính xác, rất đúng nếu không muốn nói là trăm phần trăm. Chủ yếu người Điền dùng trống đồng như một Trục Thế Giới để dâng lễ vật, vật người hiến tế tới Tam Thế nằm trọn vẹn trong ý nghĩa của trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn do tôi giải đọc. Trống của đại tộc Đông Sơn diễn tả Vũ Trụ Tạo Sinh, là trống biểu của Vũ Trụ giáo với trống Nguyễn Xuân Quang VI tức Heger I là trống Cây Vũ Nấm Trụ (Cây Nấm Tam Thế, Cây Nấm Đời Sống) có thân trống là Trục Thế Giới. Người Điền chỉ chủ yếu nhìn trống đồng dưới diện Trục Thế Giới này.
Trống đồng nòng nọc, âm dương là của Đại Tộc Việt, của Bách Việt. Mỗi tộc có một loại trống đồng mang sắc thái của tộc đó và nó thay đổi tùy theo thời đại nhưng vẫn nằm trong liên bang Văn Lang có trống biểu là trống Nấm Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) Nguyễn Xuân Quang VI hay Heger I. Trống đồng Điền chỉ là một tộc nằm trong trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn mang thêm mầu sắc võ biền, du mục và không thể cho rằng trống đồng Điền là nguồn gốc của trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn (xem bài viết Trống Đồng Của Trung Hoa hay của Đại Tộc Việt). Trống đồng Nam Trung Hoa của các tộc Bách Việt chấm dứt vào thời nhà Thanh vì khi đó phần đất nam Trung Hoa bị hoàn toàn sáp nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, các tộc Bách Việt không còn ở dưới thể chế chư hầu phải triều cống Trung Hoa như trước. Điểm này cũng cho thấy trống đồng nòng nọc, âm dương không phải của Trung Hoa.
Tài Liệu Tham Khảo
Tài liệu tham khảo chính ngoài các tác phẩm của tác giả:
1.Zhang Zengqi, Bronze Arts of Dian Kingdom, Yunnan People’s Publishing House, Yunnan Fine`Arts Publishing House.
2.Ambra Calo – Heger I Bronze Drums and the Relationships between Dian and Dong Son Cultures, Interpreting Southeast Asia’s Past, Volume 2: Chapter 16, Monument, Image and Text – Google Books Result, European Association of Southeast Asian Archaeologists. International Conference, Elisabeth A. Bacus, Ian Glover
3.A.J Bernet Kempers, The Kettle Drums of Southeast Asia, A. A. Balkema/ Rotterdam/Brookfield, 1988.4.Vi. Wikipedia.