Hiển thị các bài đăng có nhãn BÀI VIẾT VỀ VĂN HÓA (SƯU TẦM). Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn BÀI VIẾT VỀ VĂN HÓA (SƯU TẦM). Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 6 tháng 2, 2015

引狼入室 (Rước sói vào nhà)

引狼入室 (Rước sói vào nhà)
Ps: Tặng Họa sĩ LÊ TRUNG HƯƠNG
Sói là một trong những loài động vật có vú sinh sống tại nhiều nơi nhất trên thế giới. Nó là tổ tiên của loài chó nhà ngày nay.
Có rất nhiều phân loài sói khác nhau, nhìn chung sói là loài hung dữ và có hàm răng rất sắc có thể xé thịt con mồi. Chúng thường được coi là một mối đe dọa cho con người và vật nuôi.
Có một câu chuyện dân gian về chó sói rất phổ biến ở Trung Quốc.
Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé chăn cừu làm việc chăm chỉ. Cậu chăm sóc và bảo vệ đàn cừu rất tốt.
Một ngày, cậu nhìn thấy một con chó sói sau bầy cừu nhưng con sói giữ một khoảng cách nhất định. Cậu bắt đầu cảnh giác.
Con sói nhìn cậu bé và bầy cừu từ sườn đồi mỗi ngày và không làm gì hại đến cậu và đám cừu kia.
Vì vậy, cậu bé chăn cừu không thấy bất kỳ mối nguy hại nào từ con chó sói đối với đàn cừu của mình, vì vậy cậu dần dần nới lỏng cảnh giác. Cậu thậm chí còn cho rằng nó có thể là một con chó chăn cừu, chỉ trông có vẻ khác những con chó chăn cừu khác.
Một ngày nọ, cậu cần phải đi vào thị trấn, do đó, cậu hỏi con sói liệu nó có thể giúp cậu bảo vệ bầy cừu trong lúc cậu vắng mặt không.
Con sói nhiệt tình đảm nhận việc, và hứa sẽ chăm sóc tốt bầy cừu trong khi cậu bé đi vắng.
Cậu bé chăn cừu yên tâm vào thị trấn. Khi chó sói chắc chắn rằng cậu bé đã đi, nó vồ đàn cừu. Bị đói khát trong một thời gian dài như vậy, giờ là lúc con sói thỏa mãn đánh chén.
Khi cậu bé chăn cừu trở về, gần như cả đàn cừu đã chết và máu cừu rải rác trên tất cả các sườn đồi. Cậu nhanh chóng nhận ra những gì con sói đã làm.
Cậu rất hối hận vì bị lừa : “Con sói đã nhận giúp tôi! Sao tôi có thể tin tưởng một con sói và để nó trông nom bầy cừu kia chứ?”
Câu chuyện trên được kể đi kể lại nhiều lần cùng với lời cảnh báo con người không bao giờ nên tin tưởng những kẻ vốn xảo quyệt.
Câu “mời sói vào nhà” đầu tiên xuất hiện trong một kịch bản của Zhongming Jia (1) vào khoảng cuối triều đại nhà Nguyên (1279-1368 AD) để cảnh báo không bao giờ nên mở cửa cho kẻ thù nguy hiểm.
Sau đó, câu chuyện đã trở thành thành ngữ 引狼入室 (yǐn láng ru shì), có thể dịch là “rước sói vào nhà.”
Thành ngữ tương đương trong tiếng Anh là ‘để cáo coi chuồng gà’. Một thành ngữ tương là “báo không thay da đốm”, cho thấy rằng con người không thể thay đổi bản tính tự nhiên của mình.
Ghi chú:
Zhongming Jia (贾 仲 名), AD 1343-1422, là một nhà biên kịch nổi tiếng. Ông sống trong thời kỳ cuối cùng của triều đại nhà Nguyên và khởi đầu của triều đại nhà Minh.
Nguồn: vietdaikynguyen.com

read more...

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Người Nhật Bản tắm như thế nào?


Người Nhật Bản tắm như thế nào?
Đối với người Nhật Bản, tắm gội thường xuyên trong một ngày dường như là chuyện cơm bữa. Nó không chỉ đơn giản là làm sạch cơ thể mà còn như bảo tồn nét văn hóa lâu đời của họ. Như việc phải bỏ dép đi ngoài đường mỗi khi bước vào nhà, vì họ quan niệm tất cả những thứ ở bên ngoài là những thứ không sạch sẽ. Tương tự như ở trong nhà tắm cũng vậy, khi muốn bước vào toa-lét thì phải thay dép đi trong phòng.


Người Nhật cho rằng, toa-lét là nơi rất mất vệ sinh, nên nó thường được xây ở một phòng riêng tách biệt hoàn toàn với căn hộ. Khi bước vào nhà tắm, bạn sẽ thấy thêm một căn phòng bên cạnh, nơi có đặt một cái bồn rừa, quần áo thường được giặt trong này. Toa-lét có một cửa ra vào. Các toa-lét truyền thống thường chỉ là một bệ sứ đặt trên nền nhà, và người ta sẽ phải ngồi xổm để "giải quyết". Tuy nhiên trong một hộ gia đình hiện đại thời nay bạn sẽ hầu như không thể tìm thấy loại toa-lét này, thay vào là loại toa-lét của phương Tây. Nếu một gia đình khá giả hơn, toa-lét có thể sử dụng bằng các nút ấn và hoạt động tự động.



Những khoảng không gian rộng rãi trong nhà tắm thường đặt vòi hoa sen hoặc bồn. Khi đi phải bỏ dép và vào chân đất, cống thoát nước sẽ được đặt dưới nền nhà. Như bạn thường thấy ở phương Tây thì sẽ có một buồng được thiết kế riêng để tắm vòi sen, nhưng ở Nhật thì không. Thường thì sẽ chỉ có một vòi nước, một bánh xà phòng và một cái chậu. Nước được đun khoảng 50 độ và được giữ ấm có thể khoảng vài ngày trong bồn. Mỗi người sẽ phải tự tắm thật sạch sẽ trước khi dùng, vì toàn bộ gia đình sẽ cùng tắm chung nước và không được thay . Ở Nhật tắm bồn là một hoạt động tập thể. Nếu bồn tắm trong nhà không đủ chỗ cho tất cả các thành viên, thì từng người sẽ tắm, lần lượt theo thứ bậc trong nhà. Trước tiên là trụ cột gia đình, rồi đến những người đàn ông theo thứ tự từ già đến trẻ, phụ nữ cũng tương tự theo cách như vậy. Nếu bạn đến thăm một ngôi nhà ở Nhật, bạn cũng sẽ được yêu cầu tham quan một nhà tắm như vậy. Người phương Tay đã tỏ ra rất thích thú. Nếu bạn có thể, hãy thử một lần.

Tắm là một hoạt động tập thể. Cho nên người Nhật Bản rất thích đến các nhà tắm công cộng. Ta cũng phải phân biệt giữa Sentou (銭湯), có nghĩa là Nhà tắm công cộng với Suối nước nóng, nơi có nguồn khí trời trong lành.



Hãy trút hết mọi phiền thoái và đến thăm một Nhà tắm công cộng. Phần lớn nơi đây đều phân chia theo từng hộ gia đình, nhưng cũng có những khu tắm hỗn hợp, cũng như ở nhà, họ phải tắm gội thật sạch rồi mới được bước vào bể tắm nóng. Những bồn tắm lớn thường có một bức vách ngăn cách, phân chia các khu trông giống như một dãy núi nhỏ.


Thông qua bức vách có thể nghe thấy tiếng hét rất rõ từ gian bên cạnh, chẳng hạn như vì nước quá nóng. Tất nhiên khi tắm phải khỏa thân hoàn toàn, quần áo tắm không được phép ở đây. Và bạn cũng không nên quá rụt rè hay ngượng ngập.



Suối nước nóng gọi là Onsen (温泉). Ở Nhật nó thường nằm ở những nơi núi lửa còn hoạt động mạnh. Vì vậy thường có rất nhiều các suối nước nóng, khoảng trên 2000 suối được dùng làm nơi tắm. Vì nước rất nóng, nên bạn có thể nằm ngoài trời tuyết rơi để tắm mà không sợ gì. Thật liện lợi để giữ một cái đầu luôn mát mẻ và tỉnh táo Sẽ chả có gì thú vị đối với những người nước ngoài khi đã sống nhiều năm ở Nhật mà không bỏ ra vài ngày đến thăm những nhà tắm hơi này.

Nguồn dịch: Animepro
read more...

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

Tố nữ kinh và KamaSutra: Tuyệt phẩm dâm thư?

Tố nữ kinh và KamaSutra: Tuyệt phẩm dâm thư?

Cũng đã từng hứa hẹn, cũng đã từng suy nghĩ về việc có nên review hai cuốn “dâm thư” nổi tiếng thời xưa này hay không. Rốt cục, cũng đi đến quyết định là nên viết vài dòng. Thời xưa, hai cuốn sách này bị cấm bởi vì nó không phù hợp với thứ văn hóa khép kín của người phương Đông chúng ta. Vì đây là một chủ đề khá nhạy cảm bàn về vấn đề tình dục, nên những ai chưa đủ 18, xin vui lòng quay trở ra. Thank you
Học Đại học, trong quá trình học văn học thì cũng đã được nghe các thầy giới thiệu sơ qua về hai cuốn này. Vậy nên mới tò mò lên mạng xem thử. Dù khía cạnh mà sách đề cập chỉ toàn vấn đề chuyên môn về tình dục nhưng phải nói rằng, nó không chỉ khái quát ở tính dâm mà còn là một phạm trù rộng lớn, tổng hợp tất cả những “bí kíp” của vua chúa thời xưa để bảo vệ sức khỏe cũng như duy trì được một cơ thể tráng kiện.



Vấn đề sinh lý người (theo quan niệm người phương Tây) thì nó cũng quan trọng chẳng kém các như cầu thiết yếu khác như ăn uống, hít thở không khí, ngủ… Vậy nên, nói chuyện về nó thì cũng chẳng có gì sai nếu ta áp dụng trong một khuôn khổ cho phép, đừng quá lạm dụng để tự hại người hại thân. Vì điều đó, tính dâm sẽ vượt ra ngoài khuôn khổ đạo đức cho phép, cái gọi là luân thường đạo lý mà con người – dù muốn hay không thì cũng phải được duy trì.
Khi đọc Tố nữ kinh và KamaSutram, chúng ta sẽ dễ bị lầm lẫn những tác phẩm này là bệnh hoạn của đội ngũ quý tộc xưa kia. Nhưng nếu xét kỹ trên mọi góc cạnh thì đó là một nhận định có phần khắt khe. Bởi bạn biết không, khi giới trẻ không hiểu rõ về vấn đề tình dục, về những cái để bảo vệ sức khỏe của mình thì sau này, những hệ quả là cực kỳ tai hại. Rất có thể, sẽ là một cuộc chia ly sau hôn nhân vì hai người không thể hòa hợp nhau trong vấn đề chăn gối. Cũng có thể, bạn sẽ cảm thấy mình như một người bất lực, không tự tin vào khả năng của mình dù không phải, bạn có vấn đề gì về sinh lý. Chỉ là thiếu đôi chút gọi là kinh nghiệm…



Nhiều người trong xã hội quan tâm đến tính dục nhưng chẳng dám nói ra, vì người phương Đông chúng ta vốn dĩ kín đáo, e dè trước những vấn đề nhạy cảm trong cuộc sống. Một người bị dục tính chi phối, người đó là một cá thể không tốt trong xã hội này. Ai cũng có sự ham muốn nhục dục nhất định, khi tình dục trở thành đỉnh cao thì tuyệt đỉnh kungfu lại là ở khả năng tự kiềm chế. Và như thế, nó chẳng phải là một sự hành dâm cao thượng?
Nếu bạn đọc hai cuốn sách này mà suy nghĩ, những người viết ra chỉ để là khuyến dâm với những tình tiết thô trọc, khuyến khích sự đắm đuối dục vọng thì quả là sai lầm. Có lẽ, những người đã viết ra cốt không có ý khuyến dâm mà nhằm mục đích tốt, truyền thụ kinh nghiệm cho hậu thế tìm hiểu, suy ngẫm mà áp dụng sao cho đúng.
Ân ái trong hai cuốn sách đã được đưa lên thành một thứ nghệ thuật giữa nam và nữ, phối hợp một cách nhịp nhàng và trở thành nền tảng của hạnh phúc con người, hạnh phúc gia đình và quan trọng nhất, hạnh phúc của những đôi vợ chồng. Như các bạn đã biết, rất nhiều tác phẩm văn học kinh điển đã trở thành bất hủ đều có đề cập đến khía cạnh sex, tạo nên sự thích thú cho người đọc.



KamaSutra là tác phẩm có nguồn gốc xuất xứ bên Ấn Độ còn Tố Nữ Kinh, là của Trung Quốc – cái nôi của rất nhiều nghệ thuật được sản sinh. Dù là hai tác phẩm riêng biệt nhưng nó có điểm chung là đề cập đến một vấn đề rất nhạy cảm, khó nói nhưng rất quan trọng: sex. Bên cạnh đó, còn là những vấn đề nhìn tướng để đoán số mệnh, là những phương thuốc để cơ thể luôn cường tráng, khỏe manh. Cũng có thể, nghệ thuật tình dục giúp bạn trường sinh, điều mà nhiều nhân vật lịch sử của thế giới cổ đại đã làm được và bạn chẳng thể lý giải được.
* Cảm nhận đôi điều về hai cuốn sách cấm nổi tiếng này vì khi đọc xong, cảm thấy mình nên chia sẻ đôi chút. Không dám review một cách tường tận vì nó phạm vào những giới quy của văn hóa phương Đông. Tất nhiên, những người khi đọc những review trên sẽ có những suy nghĩ đối chiều nhưng quan điểm của Rú, là muốn có lợi cho mọi người. Đây hoàn toàn không phải là sự tuyên truyền những văn hóa phẩm mang tính đồi trụy, mong bạn đọc thông cảm. Còn chuyện tìm sách về đọc, các bạn tự tìm hiểu lấy nhé vì nó rất nhạy cảm. Vậy nên, hãy cân nhắc kỹ trước khi đọc, cấm trẻ em dưới 18 tuổi. Thanks!
read more...

Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2012

Bài thứ nhất : Thế nào là vành ngoài 7 chử và vành trong 8 nghề ?



BS HỒ ĐẮC DUY –TÔ KIỀU NGÂN

Bài thứ nhất : Thế nào là vành ngoài 7 chử và vành trong 8 nghề ?

Trong lúc trà dư tửu hậu, nói chuyện cao dao, văn chương trong tình duc, thì một anh bạn có đưa ra cho tôi hai câu hỏi qua mấy câu thơ mà Tú Bà dạy cho nàng Kiều
Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẫn đời

Câu thứ nhất : Thế nào là vành ngoài 7 chử và vành trong 8 nghề ?

Câu thứ hai :Nàng Kiều rơi vào thân phân của gái lầu xanh, tại sao nàng không mang thai, lúc đó dã có biện pháp phòng tránh thai chưa ? hay là Tú bà đã giúp cho các cô gái lầu xanh bí quyết gì để không mang bầu ?

Là một người nghiên cứu về tình dục tôi cũng phải chới với hai câu hỏi này

Câu chuyện của Truyện Kiều là một câu chuyện đời thật hay là nàng Kiều là một nhân vât hư cấu, dù thật hay hư cấu thì cũng phải giải thích thôi

Hiện tại thì người quan niệm rằng Tình dục là một khoa học nghiên cứu về tính dục của con người, một bộ môn vưa thuộc khoa hoc xã hôi nhân văn vừa thuộc Y Học, nó giúp cho con người hiễu biết thêm về các vấn đề liên quan đến các hoạt động tình dục, học nghệ thuật kềm chế, giải tỏa những ức chế dễ làm cho cuộc sông tốt đẹp hơn, thoải mái và hạnh phúc hơn

Trong lịch sử thì Tính dục được loài người nghiên cứu, viết ra, đã từng lưu hành ở khắp nơi, qua mọi thời đại như Kama-Sutra (Ấn Độ), Nhục Bồ Đoàn, Đạo Ma Mật Truyền, Ngọc Phòng Bí Kiếp (Trung Hoa),trong Đại Viết Sử Ký Toàn Thư, Khâm định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng đã nói đến trường hợp của Hoàng Đế Trần Dụ Tông ( 1325) vua Lê Uy Mục...còn trong các sách y học của Tuệ Tỉnh, Hãi Thượng Lãn Ông, Nguyễn Đình Chiểu của nước ta các y sư đó cũng đã đề cập đến và đưa ra phương thuốc điều tri

Bản chất của tính dục thì có một. Cảm quan tính dục thì khác nhau, tuỳ cách tuỳ người, tuỳ thời

Vì thế muốn căn kẻ vấn đề tình dục trong một tác phẫn văn chương tuyệt tác như Truyện Kiều quả thật rất khó

Không biết khi viết tác phẫm Truyện Kiều thì nhà đại thi hào Nguyễn Du có nghiên cứu sách Tố Nữ Kinh không, một quyễn sách về Tình Dục của Trung Quốc được viết từ thế kỷ thứ 5 mà thời bấy giờ người ta gọi là Dâm thư, có lẽ Nguyễn Du một người uyên bác như thế hẳn đã có liếc mắt xem qua vì 7 chử và 8 nghề đều có thấy nói đến trong sách ấy

"Bảy chữ, tám nghề" là những mánh khóe, thủ đoạn mà Tú bà dạy cho nàng Kiều khi ở lầu xanh thuộc nằm lòng để áp dụng phải làm sao cho khách làng chơi mê mẫn mà đổ hết bạc tiền, tiêu hết cơ nghiệp vào trò chơi hương phấn mà người thủ lợi là Tú bà

Ta có thể lý giải "vành ngoài" là nghệ thuật khiêu gợi bằng ngôn ngữ,tình cảm, nói năng, hát xướng bằng những cái liếc mắt đưa tình, bằng những ôm ấp nhẹ nhàn nũng nịu, một loại yêu đương da diết đam mê tột cùng

Còn " vành trong" là nghệ thuật chăn gối

Bảy chữ thuộc "vành ngoài", gồm:
56574. Khốc: Có nghĩa là khóc, dùng nước mắt để làm động lòng thương cảm của khách làng chơi. Phải khóc lóc như thật để chứng tỏ mình thành tâm, thiệt ý. Tú bà đã dạy Kiều dùng nước gừng sống tẩm vào khăn tay để lau nước mắt thì nước mắt sẽ không khô mà còn tuôn ra như suối.
56575. Tiễn: Có nghĩa là cắt. Rủ khách cùng mình mỗi người cùng cắt một mớ tóc, kết thành một sợi rồi chia cho nhau buộc vào hai cánh tay, làm lể "kết tóc" biểu tỏ thủy chung bền chặt, khách sẽ tưởng là mình chân thành mà không nở bỏ.
56576. Thích: Có nghĩa là đâm, chích. Lấy cây trâm chích vào cổ tay hay trên bắp đùi mấy chữ "Thân phu mỗ nhân" (người chồng thân yêu tên là mỗ), khách thấy vậy càng thêm yêu quý, tin tưởng ta.
56577. Thiêu: Có nghĩa là đốt, dùng hương đốt vào sáu huyệt của chàng và nàng. Sau khi thề thốt, cả hai áp người vào nhau cùng đốt các huyệt trên bụng, trên cánh tay, cổ tay. phải là người cao tay ấn mới xữ dụng thủ pháp này
56578. Giá: Có nghĩa là cưới hỏi làm vợ chồng. Sau khi điều tra biết khách là kẻ giàu có thì thủ thỉ, rủ rê, bàn chuyện cưới nhau. Tất nhiên khách muốn cưới thì phải bỏ ra một số tiền lớn để chuộc mình ra.
56579. Tẩu: Có nghĩa là chạy. Đây là kế "đà đao". Nếu thấy dan diếu đã lâu, khách hết tiền, muốn chuộc không có tiền mà muốn chơi cũng không còn tiền đâu chơi tiếp thì chỉ còn cách tống khứ khách đi cho rãnh. Lúc ấy phải giả vờ rủ khách đi trốn, hẹn giờ hẹn chỗ nhưng không đến, đánh tiếng cho lính đi bắt kẻ bỏ trốn, thế tất khách phải sợ mà… trốn thật.
56580. Tử: Có nghĩa là chết. Chết giả chứ không phải chết thật. Thề thốt cho họ tin là mình yêu họ, chỉ biết có họ thôi, nếu không tin thì chết ngay tại chỗ, trước mắt cho chàng thấy. Nếu biết y có thê thiếp rối, không thể lấy mình được thì càng làm già đến độ rủ y "cả hai cùng chết hơn là chẳng lấy được nhau!". Lúc đó, có tán gia bại sản, đem hết bạc tiền ra dâng cho mình, y cũng không tiếc.

Tám nghề thuộc "vành trong" gồm những động tác, tư thế tạo khoái cảm nhục dục cho khách làng chơi, theo thư tịch cổ thì Cửu Pháp có mục đích dưỡng sinh còn Tam Thập Pháp trái lại là những vị thế rất cơ bản trong sinh hoạt tình dục lấy sự khoái cảm làm mục đích chính

Đó là 8 tư thế cơ bản như : chính thường vị , thân triển vị ,cao yêu vị,khuất khúc vị, nữ thượng vị,phản vị, kỵ thừa vị và ngọa chiếu vị cho những biến thế sau :

Tự trù mâu (Quấn quít, nam nữ quyện lấy nhau).Thân khiển quyển(Nam, nữ thân mật nắm tay nhau vuốt ve.) Bạo tự ngư, Kỳ lân giác,Toản mặc cẩm, Long uyển chuyển, Ngư tỉ mục,Yến đồng tâm, Phỉ thuý giao, Uyên ương hợp, Không phiên diệp,Bối phi cưu, hoàng ngạc túc, Mã dao đề, Bạch hổ thắng, Côn kê lâm trường, Miêu thử đồng huyệt.....

Có người giải thích vành trong 8 nghề của Tú Bà là các tư thế giao hợp như sau
1. Kích cổ thôi hoa (đánh trống giục hoa)
2. Kim liên song tỏa (sen vàng khóa chặt hai vế)
3. Đại triển kỳ cô (mở tung cờ trống)
4. Màn đã khinh xao (chậm đánh khẽ rung)
5. Khẩn soan tam trật (ôm chặt ba chân)
6. Tả chi hữu trì (tạy mặt ôm, tay trái giữ)
7. Tả tâm truy hồn (khóa lấy tâm, theo dõi thần hồn)
8. Nhiếp thần siểm tỏa (thu hết tinh thần làm ra vẻ dún dẩy)

Lối giải thích này e rằng không phù hợp, bởi các tư thế hoạt đông tình dục có thể là 30, 36 hay 72 tư thế khác nhau, nhung nó chỉ là biến hóa từ 8 tư thế căn bản mà Tú bà có thể coi như một tay uyên bác trong lảnh vực này, chi cần thành thạo 8 tư thế đó thì nó sẽ là thiên vạn hóa

Tóm lại đây là những ngón nghề thuộc giới "chẩn thượng" (trên gối) ám chỉ giới làng chơi, mỗi nghề trên áp dụng cho mỗi loại khách, mỗi loại nguời, cũng tùy theo khách là người nhỏ yếu hay lớn con, dai dẳng.người nôn nóng, sôi nổi, hay xìu xìu, ểnh ểnh của bệnh nhân bị bệnh Liệt Dương, bất lực hay xuất tinh sớm cũng đều có thể điều trị theo cách giao hợp theo các tư thế…

Khách đã vào Lầu Xanh thì các cô gáiphải làm thỏa mãn đòi hỏi của khách chơi trong quan hệ tình dục cho dù khách là một người bi bệnh liệt dương mà nếu thỏa mãn dược tình dục thì số tiền mà tú bà thu vào không kễ xiết

Tú Bà đã nói với Kiều như sau :
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Điều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nếp mới là người soi

Dạy cho nàng Kiều biết phối hợp một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo pha lẫn với nổi đam mê, tình yêu và nghệ thuật chăn gối quả thật Tú Bà là môt tay bản lảnh trong xữ lý các tình huấn rắc rối trong tình dục của mọi loiạ khách làng chơi và diều đó nếu áp dụng trong đời sống vợ chồng thì có lẻ sẽ không có những vụ ly hôn ly dị hay ngoại tình do những trục trặc do hay không đồng bộ trong hoạt động tình dục gây nên
read more...

Thứ Tư, 16 tháng 5, 2012

GIỚI TÍNH TRONG NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN


GIỚI TÍNH TRONG NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN


GIỚI TÍNH TRONG NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN

Tara

Nhân đại lễ Vesak 2008, vừa qua Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam phối hợp với nhà sưu tập Dương Phú Hiến đã cống hiến cho công chúng Hà Nội một cuộc trưng bày chưa từng có về nghệ thuật Phật giáo châu á. Với một số lượng lớn về tượng Phật Tạng truyền, triển lãm đã đem lại cho công chúng từ sự kinh ngạc này tới sự kinh ngạc khác (1). Rất nhiều câu hỏi được đặt ra trong triển lãm, gom góp những kiến thức rời rạc, bài viết tập trung vào việc giải thích một trong những lý do làm triển lãm thành một sự kiện văn hóa nổi bật nhất tháng 5 vừa qua.

Phật giáo Tạng truyền là khái niệm ban đầu chỉ dòng Phật giáo lưu truyền ở Tây Tạng, Nepan, Bhutan, Sikkim. Giới tính trong nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền là một chủ đề nghiên cứu rất thú vị; vì tôn giáo nói chung không mặn mà với vấn đề giới tính, tình dục, cứu cánh của tôn giáo không ở trên giường mà là ở trên thiên đường. Phật giáo là một tôn giáo hướng đến sự bình đẳng không phân biệt thành phần xuất thân, đẳng cấp xã hội. Nhưng Phật giáo nguyên thủy không đặt ra vấn đề bình đẳng giới. Phật giáo vốn là tôn giáo rất linh hoạt, khi vượt qua những dãy núi cao ngất quanh năm tuyết phủ của dãy Himalaya đã hòa nhập với tín ngưỡng và văn hóa bản địa nơi đây tạo nên những hình tượng nghệ thuật Phật giáo vô cùng đặc sắc. Một trong những điều làm nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng mê hoặc người xem chính là sự cường điệu nhân tố giới tính. Hay nói theo cách của giới trẻ là rất sexy.

1. Sơ lược vài nét về nghệ thuật Phật giáo.

Phật giáo tuy hình thành từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên nhưng thoạt đầu là tôn giáo không chủ trương lập tượng. Đức Phật ban đầu được thờ phụng với hình thức biểu tượng như Bánh xe hay chiếc ngai. Cho đến thế kỷ thứ nhất sau CN, tôn giáo Đại Thừa tại Tây Bắc ấn Độ bắt đầu hưng khởi, việc thờ các ngẫu tượng mới bắt đầu xuất hiện. Phật giáo Đại thừa dùng nghệ thuật tạo hình như một phương tiện để truyền giáo. Đây là lý do sự bùng nổ các loại tượng Phật của Phật giáo đại thừa. “Nghi lễ giáo lý nhấn mạnh đến “ quán” và “quán tưởng”, tín đồ khi tập trung ý chí để xem một bức tranh hay một bức tượng, sau đó thông qua thiền định, đạt tới “ tâm nhãn” nhìn thấu cảnh giới chân tướng của Phật và Bồ Tát, nhờ đó lĩnh ngộ được sự vĩ đại của Phật pháp. Trong quá trình này thì các tượng thờ không chỉ là hình ảnh thay thế của Phật hay Bồ tát, nó còn là một loại “ vật dẫn đạo”.(2) Bởi vậy, Phật giáo buổi đầu đến Trung Quốc còn có tên gọi tượng giáo để phân biệt với Đạo giáo một tôn giáo bản địa thoạt đầu không lập tượng thờ. Với Đại thừa Phật giáo, không có tôn giáo nào có thể sánh được về sự phong phú về chủng loại và sự đa dạng về phong cách. Và trong Phật giáo Tạng truyền số lượng các loại tượng Phật còn đông gấp bội. Thông thường có từ 300 tới 500 loại tượng Phật. Năm thứ ba đời vua Càn Long nhà Thanh, Chương Gia, quốc sư đã chủ biên bộ sách “ Tam bách tượng Phật tuyển” phỏng theo cách thức quy định của Phật giáo Tạng truyền. Năm 2007 cuộc trưng bày bộ sưu tập 100 hiện vật nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền của ngôi chùa Bạch Tháp tự nổi tiếng (Bắc Kinh) tại thành phố Thâm Quyến tại Bảo tàng Thâm Quyến. 100 hiện vật hàng quốc bảo được tuyển chọn từ hơn một vạn hiện vật đã được phân chia thành 7 nhóm tượng chính yếu. Một. Tượng Tổ sư. Hai. Tượng. Mật tu bản tôn. Ba. Tượng Phật mẫu. Bốn. Tượng Phật tổ. Năm. Tượng Bồ tát. Sáu. Tượng La Hán. Bẩy. Tượng Hộ pháp. Nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền mãi mãi là một sức hấp dẫn đầy ma lực của nghệ thuật Phật giáo. Triển lãm này tiếp sau triển lãm năm 2004 tại Dung Hòa Cung ở Bắc Kinh đã cho công chúng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền. Sự say mê của nghệ thuật Phật giáo này có phần bởi sự hấp dẫn của những nhân tố giới tính trên hệ thống đồ tượng,

2. Sự cường điệu giới tính trong nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền.

Những bức tượng Phật hiện diện gần như khỏa thân là điều chưa từng biết đến ở Việt Nam. ở Việt Nam tượng Thích Ca sơ sinh là tượng Phật hài đồng mới không mặc quần áo. Nhưng hiện nay nhiều chùa bắt tượng này khoác một chiếc áo choàng. Nên phần đông công chúng tới thăm triển lãm đều không ít băn khoăn, thậm chí có người còn cho rằng nó không phải là tượng Phật.

Có hai loại tượng gây sốc về giới tính trong triển lãm này: một là tượng Phật nữ gần như khỏa thân, hai là tượng song thân một nam một nữ dính chặt vào nhau.

Trước tiên xin đề cập tới tượng Độ mẫu Tara có nguồn gốc từ ấn Độ sau đó phát triển rất mạnh ở Tây Tạng. Trong triển lãm Nghệ thuật Phật giáo châu á vừa qua, chú thích ban đầu cho bức tượng chỉ ghi đơn giản “ tượng Phật” đã làm thắc mắc bao khán giả. Tượng với đôi gò bông đảo căng phồng, bụng thon mông nở, đùi căng mặt tươi rói gợi cho ta hình ảnh của một thanh nữ hơn là những khuôn mặt tiết hạnh, trìu mến ân cần của các tượng Phật bà quan âm. Theo “ Tạo tượng độ kinh”(3) phần qui định về hình tượng Độ mẫu ghi rõ “ hình tướng như các cô gái đồng trinh tuổi mười sáu”. Vẻ đẹp của tượng Độ mẫu làm người viết không khỏi liên tưởng tới chất nhục cảm của các pho tượng Tứ Pháp Việt Nam. Nhưng Tây Tạng trong lịch sử không bị sự kiềm tỏa của Nho giáo như Việt Nam nên chất nhục cảm không phải ẩn giấu mà cứ phơi phới, hừng hực phô bày. Độ mẫu Phật có nhiều loại theo mỗi mầu khác nhau mà theo đó có những công năng và ý nghĩa cầu chúc khác nhau như mầu xanh, mầu trắng mầu đỏ, mầu vàng. Cách biểu thị đa dạng mầu sắc này cũng lại làm ta nhớ tới cách tô mầu tượng Bà Mây bà Mưa, Bà Sấm, Bà Chớp trong tín ngưỡng Tứ Pháp hay cách tô mầu cho các vị tượng Mẫu của người Việt (4)
Một pho tượng đồng khá lớn trong triển lãm này cũng làm người xem bối rối là bức tượng Vajrayogini trong hình ảnh của một cô gái khỏa thân hiên ngang mạnh mẽ. Đây là một biểu tượng của chiến thắng vô minh của Phật giáo. Tượng này có khởi nguồn từ ấn Độ khoảng thế kỷ thứ 10-12. Cũng giống như Tara, hình ảnh của Vajrayogini là một cô gái 16 tuổi trăng tròn, ngực để trần, căng mọng hiên ngang đứng thẳng trong quầng lửa mặt hướng lên trời.

So với các nền nghệ thuật Phật giáo trên thế giới, tượng Phật Tạng truyền rất đàn ông và cũng rất đàn bà. Về điểm này Phật giáo Trung Hoa lại phát triển theo hướng nhòe mờ giới tính. Các bức tượng không những bị phủ kín vải vóc mà ngay cả các khuôn mặt các tượng Phật vốn là nam cũng dần mang chất nữ. Xu hướng suy giảm giới tính này của nghệ thuật tượng phật Trung Hoa biến chuyển từ Tây sang Đông, từ Nam Bắc triều đến thời Tống Minh. Chẳng hạn như tượng đức Phật ở Vân Cương, Đại Đồng tỉnh Sơn Tây thời Bắc Ngụy thì còn vẻ uy nghi cương nghị của một nam nhi. Càng về sau và càng đi vào sâu trong lục địa, tượng Phật Trung Hoa càng mềm mại hơn. Khuynh hướng này cũng đã ảnh hưởng ít nhiều tới tượng Phật Việt Nam. Xu hướng nữ hóa các tượng Phật về thực chất là sự trung hòa giới tính trong nghệ thuật Phật giáo thế giới, nó đã diễn ra ở rất nhiều nền nghệ thuật Phật giáo, kể cả Thái Lan, Lào, Cămpuchia, những đất nước của Phật giáo tiểu thừa.

Nếu như tượng Độ mẫu hay tượng Quan âm thể hiện sự mềm mại, dịu dàng của nữ giới thì tượng Kim Cương (Vajrapani) – (5) lại là thái cực ngược lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết liệt. “ Vajra nhận lấy đặc tính của kim cương mà ý nghĩa của nó là đức tính tinh khiết bất diệt, còn gọi là tri thức tuyệt đối hoặc là tuệ, cắt đứt vô minh”. (6)

Nhóm tượng thứ hai, tượng Song thân Phật phần lớn làm bằng vàng hay hợp kim vàng là tượng. Song thân Phật hay cũng gọi là tượng Hoan hỉ Phật là cách gọi không thực sự chuẩn của Trung Quốc đại lục đã từ lâu. Tượng có cấu trúc của một hình nữ và một nam. Từng có một thời ở Trung Quốc lục địa gắn cho tượng này với ý nghĩa dâm lạc. Đây là loại tượng đồ rất tiêu biểu của Phật giáo Tạng truyền, thể hiện sâu sắc minh triết về giới tính của Phật giáo Mật tông, biểu tượng cho hai nhân tố âm dương đối đãi, và nó không liên quan gì tới những hành vi dâm dục của thế tục.

Khi Phật giáo Tạng truyền phát triển mạnh ở các nước phương Tây, thì một trong những chủ đề được các học giả chú ý là vai trò của nữ giới trong Phật giáo Tây Tạng. Thật vậy, ngay từ buổi bình minh Phật giáo ở trên mái nhà thế giới, vai trò của các nữ tu hành đã được đề cao. Khảo sát về danh xưng các nữ sỹ xuất gia trong tiếng Tạng, bà De Ji Zhou Ma ( Đắc Cát Trác Ma) phát hiện ra nhiều cách gọi thể hiện sự tôn kính như btsun-ma ( nữ tôn giả), dg-ma (thiện nữ), jo-mo (Phật mẫu), ma-jo (thân mẫu), A-n-jo-mo (cô mẫu). Cách gọi kính trọng này duy chỉ có trong ngôn ngữ Tạng. Cách xưng hô nói lên một nét văn hóa bản địa nơi đây và cho chúng ta tin vào những cứ liệu lịch sử rằng Phật giáo du nhập vào Tây Tạng đầu thế kỷ thứ 7 thì vào giữa thế kỷ thứ 8 đã có nhiều nữ sỹ xuất thân trong các gia đình quyền thế quý tộc xuất gia tu hành. Vào triều đại của Songtsn Gampo, một đức vua sùng tín đạo Phật có hai hoàng hậu từ hai nước Phật giáo là Nepan và Đại Đường Trung Hoa đã làm đạo Phật lan truyền nhanh chóng trong giới thượng lưu, quyền quý. Tì khâu ni (Bhikkhuni – nữ tu sỹ) kiệt xuất Zhuo Sa Jiang Ju đã cùng với 30 nữ sỹ xuất gia khác lập nên tăng đoàn tì khâu ni đầu tiên ở Tây Tạng. So với một lịch sử non trẻ của Phật giáo Tây Tạng lúc đó thì đây là một sự kiện trọng đại. Nó cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng đề cao hình vị trí nữ giới trong thế giới tôn giáo vốn luôn là nơi ngự trị của các đấng mày râu.

Lý giải về sự xuất hiện đậm nét những biểu hiện giới tính trong Phật giáo Tây Tạng là một chủ đề lớn mà người viết tự thấy vượt quá khả năng của mình. Trong phần kết này, tôi xin được nhắc đến bối cảnh lịch sử và vị trí địa lý của Tây Tạng. Khi Phật giáo bắt đầu suy tàn ở ấn Độ trước sức mạnh của lưỡi gươm của những tên cướp nhân danh Hồi giáo, Phật giáo đã tìm thấy ở Tây Tạng một nơi trú ngụ vĩnh hằng. Các hòa thượng ấn Độ đã tìm thấy sức sống mới ở đây, những cô gái Tây Tạng phải chăng đã thay đổi suy nghĩ của họ về vai trò của nữ giới với sự phát triển của đạo Phật. Thực ra, ở ấn Độ xu hướng khẳng định nguyên lý nữ tính (shakti) là lực lượng chủ yếu trong vũ trụ của phái Kim Cương thừa đã ảnh hưởng rất lớn tới cả nghệ thuật Phật giáo và Bà la môn giáo từ sau thế kỷ thứ 7. Tây Tạng với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt với độ cao trung bình là 4900m, có nhiệt độ cao trong mùa hè nhưng cực lạnh về mùa đông, tỷ lệ tăng dân số thấp. Phật giáo nếu muốn đứng được ở đây nó không thể đi theo con đường của diệt dục và khổ hạnh. Nó tìm được những ý nghĩa tôn giáo trong cuộc sống thường nhật và đó cũng là một lý do khiến Latma giáo Tây Tạng có sức hấp dẫn lớn ở Phương Tây hiện nay.

Trần Hậu Yên Thế

(1) Tác giả không bàn tới niên đại và tính nguyên gốc của bộ sưu tập trong bài viết này
(2) Zhenyan – Diện mạo Trung Hoa qua các văn vật lịch sử
(3) Tạo tượng lượng độ kinh là sách làm thời Càn Long thứ 7 năm 1742
(4) Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng nhắc tôi về những nét tương đồng giữa nghệ thuật Tây tạng và Việt Nam. Có thể đây cũng là một hiện tượng cần được khảo cứu thêm
(5) Tượng này gắn bó với Kim Cương thừa khởi nguyên từ ấn Độ do lấy Vajra (lưỡi tầm sét hoặc kim cương) làm biểu tượng trung tâm
(6) Roy C.Craven. Mỹ thuật ấn Độ NBXB Mỹ thuật tr 209

Nguồn Lý học Đông Phương
read more...

Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Những dạng thức của hỗn mang


Những dạng thức của hỗn mang





[John Briggs - Ltt chuyển dịch]

Mọi người nói chuyện về thời tiết; đó là thứ chúng ta ai cũng biết. Mỗi buổi trưa, ánh nắng mặt trời rọi chiếu trong mái hiên, trong khi ở một nơi cư trú khác của thị trấn có thể đang mưa. Thời tiết là một hiện tượng mà chúng ta đều chia sẻ. Với sự biến đổi, sự tùy thuộc tổng quát, từ khoảnh khắc này qua khoảnh khắc khác, không thể dự đoán, thời tiết xâm nhập vào thời khóa biểu, thiết lập hay làm hư hại kế hoạch, ảnh hưởng đến trạng thái, và kết hợp chúng ta với môi trường chung quanh và lẫn nhau. Thời tiết điển hình cho một trật tự bí ẩn trong hỗn mang.
Vài thí dụ khác: Dạng thức tạo bởi những viên sỏi lộn xộn trong cảnh băng giá, trồi trên mặt đất, lốm đốm với rêu mốc. Cây mọc ngoài cánh đồng trống, cành và nhánh ngổn ngang tình cờ. Những con chim én tán loạn, giống như một nắm bụi được ném ra, nổi lên tiếng líu lo huyên náo, rồi tụ tập lại, bay nhập vào bầy đoàn có tổ chức. Ánh chớp nhoáng, đứt đoạn trên nền trời.
Hầu hết mọi người đều thấy đầy sự ngẫu nhiên trong thiên nhiên, vui thú làm sao, sâu sắc làm sao, đó là điều bình thường, có một trật tự cường tráng, ngay cả thần bí đối với những hình dạng biến đổi của làn sóng vỡ, lũ chim én trong buổi chiều mùa hạ, và thời tiết. Có hàng thế kỷ, những nhà khoa học không để ý tới những trật tự thường tình như vậy. Thái độ đó, rất lâu rồi, đã thành một thứ lương tri. Công việc truyền thống của khoa học đã đơn giản hóa, phơi bày lý giải cơ bản của thiên nhiên, rồi dùng như một phương tiện để chế ngự.
Nhưng hiện tượng thiên nhiên phức tạp như thời tiết không thể tháo rời, tẩy đi, và học dưới lớp kính của phòng thí nghiệm. Một cái cây đơn lẻ là kết quả của loạt chuyển đổi những tình huống duy nhất và rộng lớn, cái kính vạn hoa của những ảnh hưởng, như trọng lực, từ trường, cấu tạo của đất, gió, góc cạnh mặt trời, lũ côn trùng, mùa thu hoạch, và cây cối. Một làn sóng lẻ loi đập vào bờ biển, được đưa tới và duy trì bởi một tổ ong “động lực” hoặc những lực hoạt động liên tục, quá nhiều để xác định từng chi tiết.
Làn sóng và cây cối là những hệ thống động lực, mà trạng thái thay đổi qua thời gian. Những hệ thống như vậy thường đa diện, phức tạp, và tương thuộc. Chúng đẩy và kéo lẫn nhau ngay tức thời, tạo nên sự bất quy tắc nhạy bén và không thể đoán trước, là ký số của môi trường vật lý bao quanh. Từ quan điểm khoa học, sự bất qui tắc như thế từ lâu được coi đơn thuần như sự bừa bộn làm lu mờ quy cách cơ học của khoa học, vận hành bên dưới. Trên lý thuyết, những nhà khoa học tin rằng, sự bừa bộn đó có thể làm sáng tỏ và tiên đoán chính xác trạng thái vận hành, nếu thu thập đầy đủ thông tin để xác định vô số sự nối kết hổ tương giữa nguyên nhân và hậu quả. Qua đó, hầu như mọi người đều không hiểu rõ, rất nhiều giả thiết quan trọng về thiên nhiên đã bị đúc khuôn bởi ý tưởng khoa học này.
Trong thế kỷ 20, tràn ngập những khả năng thần diệu của khoa học để am hiểu và chế ngự môi trường vật lý bao quanh. Tiến bộ kỹ thuật làm lóa mắt của thế kỷ này làm mọi người tin rằng những gì khoa học không biết bây giờ về thiên nhiên, sẽ biết vào một ngày nào đó, và kiến thức này không tránh khỏi dẫn đến sự chế ngự càng lúc càng nhiều hơn. Theo giả thiết như vậy, ngay cả sự vận hành của hệ thống động lực phức tạp cao độ cũng phải nhường cho những công thức và máy tính của nhà khoa học. Thí dụ, trong cả thập kỷ những nhà khoa học đã đầu tư rất lớn, về tài năng và công nghệ vào việc nghiên cứu giả thuyết về một động lực mênh mông là khí hậu – mà chúng ta đều chia sẻ – bởi sự cải tiến về lượng và phẩm đo lường, tạo nên những yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến thời tiết, sự tiên đoán thời tiết chắc chắn phải cải tiến. Và trong sự tiên đoán thời tiết, giả thiết sâu xa này đã bị lật nhào một cách mau chóng.
1. Gió từ những cánh muỗi
Năm 1961 một nhà khí tượng ở Massachusetts Institute of Technology, Edward Lorenz, đã khám phá ra một sự kiện gây xáo trộn. Ông thấy rằng thu thập nhiều thông tin về những biến đổi như tốc độ gió, sức ép không khí, độ ẩm, nhiệt độ, và những vệt nắng mặt trời sẽ không giúp sự tiên đoán chính xác thời tiết lâu dài. Lorenz quả quyết, sự tiên đoán thời tiết thất bại, không phải có bao nhiêu thông tin mà nhà khí tượng dồn cục lại được. Lý do, ông suy diễn, hệ thống động lực như thời tiết được cấu tạo bởi rất nhiều yếu tố tác động lẫn nhau, nhạy cảm cực độ ngay cả với sự kiện nhỏ nhất. Sức nóng tỏa ra từ mui xe, gió từ những cánh muỗi ở Madagascar, hầu hết những gì không bao gồm trong cách đo của nhà khí tượng, có thể đủ làm thay đổi sự vận hành của hệ thống thời tiết. Sự thấu hiểu của Lorenz có nghĩa, cảm nhận của giả thiết cũ vẫn còn đúng: hệ thống động lực phức tạp được quyết định bởi nguyên nhân của chúng. Nếu biết tất cả nguyên nhân, có thể biết trước những gì xảy ra. Nhưng những ảnh hưởng trên một hệ thống như vậy, Lorenz tìm thấy, có hiệu quả vô tận. Như một nhà vật lý ghi nhận, hệ thống rất nhạy cảm và bị ảnh hưởng bởi những gì nhỏ tí như sức hút của một điện tử ở đầu khác của vũ trụ. Thiên nhiên bị chi phối bởi hỗn mang, nhưng không phải thứ hỗn mang hời hợt, giảm thiểu thành trật tự một cách lý thuyết, nếu thu thập được đủ thông tin. Hơn nữa, hỗn mang của thiên nhiên thì sâu xa – chỉ một cách có đủ thông tin để hiểu, cũng bao gồm ảnh hưởng ngang bằng cố gắng tập hợp những thông tin.
Với khám phá của Lorenz, các nhà nghiên cứu hăng hái lao vào khảo sát tất cả các loại hệ thống động lực, từ mạch điện tới bộ não con người, và tìm ra luật mới. Kết quả này thúc đẩy họ thay đổi quan điểm về hiện thực. Với một tốc độ gây nhiều ấn tượng, những nhà khoa học chuyển sự nghiên cứu thiên nhiên như một trật tự, theo truyền thống, thành nghiên cứu thiên nhiên như hỗn mang, và qua đó, vẫn chưa có sự đồng thuận ngay tức khắc về việc định nghĩa thuật ngữ hỗn mang.
Trong huyền thoại và truyền thuyết, hầu hết mọi nền văn hóa đều vật lộn với ý tưởng, trật tự và hỗn mang là một lưỡng tính có từ ban sơ. Trong truyền thống Thiên chúa, Chúa được diễn tả như mang ánh sáng (trật tự), làm thay đổi diện mạo của thâm sâu (hỗn mang). Người Babylon cổ đại kể về người anh hùng huyền thoại, Marduk, quay tròn Tiamat, và biến người mẹ bất hòa điệu của tất cả, thành trật tự của trời và đất. Ở Ấn độ, Siva, cha của trật tự trên trời, ẩn trốn một cách ngược đời trong chỗ hỗn mang khủng khiếp như những bãi chiến trường, đốt cháy nền tảng của sự chết. Trong truyền thống cổ đại Trung hoa, hiện thực hàng ngày được tạo và tái tạo bởi sự đắp đổi giữa ánh sáng mang vào, nguyên tắc trật tự, dương, và bóng tối, tràn đầy trong vật chất, âm. Hy lạp cổ đại tách Apollo lý trí, chống lại Dionysius dâm dục và hỗn mang. Người Iroquois ở Bắc Mỹ tu luyện tinh thần giống như Dionysius, gagonsa hay mặt giả – đeo chiếc mặt nạ vặn vẹo kinh khủng thể hiện (và thanh lọc) tâm thần và sự hỗn loạn vật lý. Nhiều bộ lạc trên thế giới bao gồm nhân vật lừa đảo giữa những thần linh, cắt xén trật tự để thể hiện sự dối trá và châm biến liên tục của thực tại.
Tìm cách đơn giản hóa thiên nhiên vào một vài số lượng “luật”, khoa học hiện đại tự giữ khoảng cách giảm trừ như vậy, trong những miền tối tăm về ý tưởng hỗn mang. Tuy nhiên, trong thế kỷ thứ 19, những kỹ sư đã khám phá – với sự phiền muộn – một loại công nghệ hỗn mang. Họ nhận ra, năng lượng hay sức nóng, luôn luôn mất đi trong máy móc, và điều này đưa những nhà vật lý ghi nhận được nhiệt động lực hỗn mang, một loại súp phi vật thể mà kết quả là khi nóng, phân tử được cấu tạo của năng lượng định hướng nguội đi, hãm lại, và bắt đầu uốn lại với nhau một cách tình cờ. Hình thức này của hỗn mang gọi là “entropy.” Những nhà lý thuyết khoa học thế kỷ 19 tiên đoán, vũ trụ tự nó, một ngày nào đó có kinh nghiệm về sự chết nóng và chấm dứt trong tiếng rên rỉ của độ hỗn loạn, hòa tan giải thiên hà, những vì sao, sao chổi – mọi thứ – trong thang số một thứ nước lèo vũ trụ.
2. Hỗn mang nhạy cảm
Hình thái hỗn mang mà Lorenz và các nhà khoa học khám phá vào thập niên 1960 và 1970 có lẽ gần với hỗn mang của huyền thoại và truyền kỳ cổ xưa. Hỗn mang, mới đầu xuất hiện như những tinh thể đầy màu sắc và trừu tượng trên màn ảnh computer chung quanh thế giới, phô bày một trật tự mạnh mẽ, khó quên. Đó là hỗn mang, đúng vậy: không thể đoán trước. Nhà khoa học theo đuổi những tinh thể nhảy lò cò trên màn ảnh, phát hiện ra sự giàu có không thể tưởng tượng, từ trước đến nay.
Để chụp những bức hình lộng lẫy này, cứ tưởng tượng nhìn hai chiếc lá thu rơi song song trên con suối. Giòng suối, với những chiếc lá, đá, nhánh cây, khúc quanh, sức ép của nước, là một hệ thống động lực phức tạp, chảy quanh co qua rừng cây: thẳng, đang lặng lờ đột nhiên gặp dòng thác xoắn, vắt lại, tung tóe trên kè đá rồi bị những cành nhánh ngăn lại, tiếp tục êm đềm trôi. Hai chiếc lá rơi, trong khoảnh khắc, kéo lại gần nhau, cuộn tròn, nối đôi chung quanh cơn xoáy. Tuy nhiên, không lâu. Vị trí hai chiếc lá thay đổi nhẹ nhàng, tách ra bởi sự chuyển động của dòng nước, và bắt đầu rời xa. Sau một vòng xoáy khác, một chiếc đong đưa, lướt qua bờ rìa những nhánh cây, xuôi theo dòng chảy; còn chiếc khác quay tròn chậm chạp và mắc vào một nhánh cây nhỏ, nước đẩy ngược, cuốn như một giải băng mỏng, tối và rồi đổi chiều, nương theo một lối nhỏ, nhập vào dòng nước.
Những chiếc lá trong hệ thống động lực này là bằng chứng của sự nhạy cảm tối đa đối với điều kiện ban đầu. Sự thay đổi nhỏ tí ti ở điểm khởi hành dẫn tới sự khác biệt vô cùng lớn trong phần số của chúng. Sự quá nhạy cảm đó là chuẩn độ của hệ thống động lực hỗn mang. Sở dĩ như vậy bởi vì chúng luôn luôn chuyển động, thay đổi, và không bao giờ có chu kỳ lập lại một cách chính xác với tình trạng ban đầu. Giống như sự thay đổi dòng sông thời gian, như nhà hiền triết Hy lạp Heraclitus đã trầm ngâm: Chúng ta không thể bước hai lần vào cùng một dòng sông. Sự nghịch biện của Heraclitus đúng với dòng đời thực và là điểm chính của hỗn mang. Rõ ràng, ngay cả khi một hệ thống động lực phức tạp vận hành có qui tắc và trật tự, ở chỉ mức nguyên tắc nhạy cảm ngầm của hỗn mang, có thể làm tách lìa sự vật. Đó không phải là việc xấu. Thật ra, đó là phần giàu có của đời sống. Thí dụ, trong phôi nhi đang phát triển của cặp song sinh với DNA như nhau, những tế bào di chuyển tới vị trí để hình thành bộ óc song sinh theo quá trình và tạo nên dạng thức nối kết khác nhau. Sự phát triển phôi thai là một hệ thống động lực, và sự nhạy cảm cao độ của điều kiện ban đầu tạo nên cái nền cố hữu của hỗn mang, chắc chắn rằng những song sinh y khuôn đó sẽ không bao giờ y khuôn một cách hoàn toàn.
3. Hỗn mang: cửa sổ vào toàn thể
Một lý do mà những yếu tố trong hệ thống động lực hỗn mang nhạy cảm đối với điều kiện ban đầu là hệ thống phức tạp này lệ thuộc vào sự phản hồi. Thí dụ, qua sự chuyển động xoáy và hỗn loạn, nước trong dòng suối tạo sự phản hồi bởi sự gấp lại ngay tức khắc trên chính nó. Những hệ thống đầy rẫy sự phản hồi đa tạp gọi là “positive feedback”, thường xuyên chịu sự biến đổi quyết liệt trong vận hành, như khi người phát biểu kề máy vi âm quá gần, gây những tạp âm, làm thành tiếng rít chói tai, hoặc khi một giọt băng đá rất nhỏ trên cánh máy bay nổ bùng làm biến loạn không khí, cũng có thể đủ đưa đến hỗn loạn làm rớt máy bay. Hệ thống thay đổi triệt để qua sự phản hồi được gọi là phi tuyến tính (nonlinear). Như tên gọi, nó đối nghịch với hệ thống tuyến tính (linear system), là hệ thống có thể lý giải, gia tốc, và đoán trước. Hệ thống tuyến tính, nói một cách chính xác, là hệ thống có thể diễn tả bằng phương trình toán học tuyến tính – như hỏa tiễn đạn đạo và mặt trăng, di chuyển ổn định trong quĩ đạo chung quanh trái đất. Một con tàu vũ trụ được đẩy nhẹ bằng hỏa tiễn kích thủy lực (biến chuyển động quay thành chuyển động thẳng), đáp xuống chính xác trên bề mặt mặt trăng là hệ thống tuyến tính. Giống như sự bật nổ của kích thủy lực, thay đổi rất nhỏ trong hệ thống tuyến tính tạo nên những tác dụng nhỏ đoán trước được. Trong hệ thống phi tuyến tính, nói cách khác, sự gấp và tái gấp lại của phản hồi, phóng đại mau chóng những thay đổi nhỏ, vì thế tác dụng – như tiếng hú bất thình lình của diễn giả hoặc như viên sỏi lăn, làm băng lở – cân xứng với nguyên nhân. Những hệ thống phi tuyến tính vận hành một cách phi tuyến tính vì chúng đan dệt với sự phản hồi tích cực, nên chỉ cần một cái giật nhẹ ở bất cứ đâu, có thể phóng đại thành sự chấn động hoặc biến hóa không ngờ.
Những nhà hỗn mang nhận ra, trong vài trường hợp, hệ thống phi tuyến tính vận hành trong cách bình thường, trật tự, tuần hoàn cho tới khi một điều gì đó bắt đầu – vượt qua điểm giới hạn, bất thình lình đi vào hỗn mang. Nhưng rồi tới một điểm chuẩn nào đó, chúng trở lại trật tự cũ. Tưởng tượng, một hòn đá nằm ở đáy dòng suối. Khi nước di chuyển bình thường, nhẹ lướt qua hòn đá, không một gợn sóng. Nhưng sau một trận mưa lớn, tốc độ của dòng chảy bất thình lình gây một vùng chảy rối trên mặt nước. Rồi khi trở lại bình thường, dòng chảy trên mặt nước vẫn như cũ nhưng hòn đá thì không còn nữa. Hoặc hỗn mang chồm lên trước hay không tùy thuộc vào vị trí. Điều đó có nghĩa là trong hệ thống động lực, hỗn mang và trật tự là những mặt nạ khác nhau mà hệ thống đã đeo vào: trong vài trường hợp hệ thống hiện ra một bộ mặt; trong trường hợp khác hiện ra bộ mặt khác. Những hệ thống này có thể xuất hiện đơn giản hay phức tạp; đơn giản và phức tạp ẩn trong nhau. Thật ra, những nhà hỗn mang đã soi sáng và tìm ra, trong hệ thống động lực điển hình, phương trình hoàn toàn đơn giản đưa tới kết quả tương tự như sự khiêu vũ vô trật tự của hỗn mang. Vì vậy, nghiên cứu về sự phức tạp không đẩy những nhà khoa học bỏ rơi niềm tin về sự đơn giản của tự nhiên – qua đó, chắc chắn, nó chứng minh quả là có một loại đơn giản kỳ lạ và bất định.
Những nhà hỗn mang nhận ra một cách nhanh chóng, vùng truyền ứng của hệ thống động lực – điểm mà từ đó hệ thống chuyển động từ đơn giản đến phức tạp, từ trật tự ổn định, trong sáng tới sự hồi chuyển tối đen và không thể hiểu thấu của tổng thể hỗn mang – rất thú vị. Bên trong vùng truyền ứng và miền giới hạn, hệ thống thoái hóa và hiện xuất trong những dạng thức (patterns). Qua chi tiết không thể đoán trước, có thể đoán trước những dạng thức và vùng biên độ của sự chuyển động. Thực tế, những nhà khoa học hiểu rằng, dạng thức của hệ thống được lập lại rõ ràng, bị lôi cuốn như thể chúng vỡ ra hoặc hiện xuất từ hỗn mang. Sự khám phá này soi sáng những nhà khoa học bởi vì nó còn giữ lại lòng tôn kính khoa học về sự đoán trước – cho tới bây giờ đó là loại đoán trước kỳ lạ và bất định.
Nhưng làm thế nào hiểu về thẩm mỹ kỳ lạ của hỗn mang? Câu trả lời không chần chừ, “tính toàn nhất.” Hệ thống động lực nhạy cảm, phi tuyến tính và không thể đoán trước trong từng chi tiết, vì chúng được mở, hoặc từ những ảnh hưởng bên ngoài hoặc do sự dao động tế vi từ bên trong. Với sự khám phá ra lý thuyết hỗn mang, điều không thể quên sự kiện đơn giản, hệ thống động lực – bao gồm tiến trình có ý nghĩa nhất trong thế giới chúng ta – không vận hành trong cô lập. Hai chiếc lá rơi từ ngoài vào dòng suối, có thể coi như tổng thể của hệ thống động lực gọi là dòng suối. Hơn thế, tự trong dòng suối, mọi yếu tố từ một cành cong mạnh mẽ tới chiếc lá nhỏ nhất và hòn sỏi – tác động ngay tức thời với nhau. Mặt khác, hệ thống động lực ám chỉ tính toàn nhất trong đó mọi thứ ảnh hưởng, hay ảnh hưởng tiềm tàng những thứ khác. Ở bất cứ lúc nào, sự phản hồi trong hệ thống động lực có thể khuếch đại một vài ảnh hưởng rõ ràng ngoài hay trong, phô bày quan hệ hổ tương của tính toàn nhất. Một cách nghịch lý, sự nghiên cứu về hỗn mang cũng là nghiên cứu về toàn thể.
Tuy nhiên, nhiều nhà hỗn mang học không dừng ở đó. Bởi sự ăn khớp chắc chắn đối với chủ đề, sự tranh cãi tiếp tục, làm sao định nghĩa một cách chính xác hỗn mang. Vài nhà khoa học hạn chế quan niệm của họ về hiện tượng hỗn mang ở vùng ranh giữa sự vận hành ổn định và hoàn toàn ngẫu nhiên. Những người khác nghiêng về cấp độ thuật ngữ của hỗn mang (với sự ngẫu nhiên ở mức cực độ), lý luận rằng ẩn dưới tất cả mọi cấp độ của hỗn mang là tính toàn nhất cơ bản. Nhưng ngay cả những nhà toàn nhất cũng đồng ý, phạm vi phong phú nhất của sự nghiên cứu về hỗn mang nằm dọc theo biên giới cực kỳ năng động, hiện hữu giữa ổn định và bất ổn định một cách khó hiểu.

4. Hình học của sự thô nhám
Trong thập niên 1960 và 1970, một nhà nghiên cứu của IBM, Benoit Mandelbrot khám phá ra hình học mới, “fractal”, và đẩy tới cùng ranh giới này. Mandelbrot đặt từ “fractal” gợi ý “đứt đoạn” và “phân đoạn” – loại hình học chú tâm tới những hình thể vỡ, gấp và không bằng phẳng. Hỗn mang đôi khi làm rối loạn hệ thống động lực và tồn tại đơn giản ở vị trí kín đáo. Hình học Fractal diễn đạt những vệt và ký hiệu ghi lại từ hành lang của hoạt tính động lực.
Chúng ta thấy fractal hàng ngày. Cây cối, núi non, lá mùa thu lác đác trong vườn: Tất cả là những dạng thức fractal, dấu hiệu của hoạt tính động lực lúc chuyển động. Lý thuyết hỗn mang kể câu chuyện về những vật thể hoang dã, xảy ra như hệ thống động lực, tiến hóa qua thời gian; hình học fractal ghi nhận những hình ảnh chuyển động trong không gian. Như vậy fractal là sự đứt đoạn còn lưu lại, sau sự va chạm của cơn địa chấn hoặc in dấu sự rối loạn và sói mòn của đại dương trên bờ biển ngoằn ngoèo; đó là cấu trúc của nhánh dương xỉ, qua mép trườn tăng trưởng của băng giá khi đông lại; khoảng cách những vì sao trên bầu trời đêm; những áng mây và lông vũ của ô nhiễm truyền ra từ thiết bị năng lượng. Khi mưa bão tự tạo trong cơn cuồng phong, để lại hình thể fractal của sự tàn phá. Ngay cả sự phức tạp khó hiểu của tinh thể tuyết (snowflake) là kết quả fractal của tiến trình hỗn mang kết hợp với tính đối xứng sáu lần của những tinh thể.
Fractal diễn tả sự thô nhám của thế giới, năng lực, sự thay đổi động lực và biến hóa. Fractal là hình ảnh của sự vật trong cách gấp và không gấp, phản hồi tự chúng và lẫn nhau. Nghiên cứu về fractal được thừa nhận qua sự thấu hiểu của nhiều nhà hỗn mang, phơi mở bí mật bất ngờ của những chuyển động động lực trong thiên nhiên.
Một trong những bí mật đó là thang số fractal. Fractal đưa ra chi tiết giống nhau trên nhiều thang số khác nhau. Thí dụ, vỏ thô nhám của cây cối lần lượt qua độ phóng đại tăng mạnh. Mỗi lần phóng đại, phát hiện thêm chi tiết nhăn nheo của lớp vỏ. Hơn nữa, trong nhiều fractal (như vỏ cây), thang số đi cùng với dạng thức tương đương khác của động lực tự nhiên: tự tương đồng (self similarity). Điều này có nghĩa, khi quan sát kỹ hình ảnh fractal, hình thể của một thang số giống như hình thể từng chi tiết của thang số khác. Thật là kỳ quái. Làm sao những hệ thống đó lại duy trì được sự tự tương đồng trong bản chất hỗn mang ở nhiều thang số khác nhau? Để hiểu nó, phải coi lại thời tiết một lần nữa.
Nhìn từ không gian, thời thiết trái đất xuất hiện trong một thang số rộng lớn: gờ mây cuộn hòa với vùng sáng, sọc lởm chởm, đây đó, bởi nhiều đám mây khác. Bản tường trình bất chợt về nhiệt độ ở thang số trên hành tinh này phô bày điểm nóng mênh mông cũng như những vùng mát. Giả thuyết, nếu thang số địa cầu có nhiều mây ở Bắc Mỹ và trên lục địa lúc này mát hơn bình thường. Giả thử thu nhỏ thang số của lục địa. Thang số của hình chụp không giống như chúng ta nhìn thấy toàn thể trên hành tinh. Hoàn toàn có vài vùng sáng đằng sau luồng khí chuyển động của những đám mây, và đây, với nhiều chi tiết trong bản nhiệt độ, một vài miền ở Hoa Kỳ, trên thực tế, ấm bất thường. Ở thang số cỡ tiểu bang, Colorado hình như ấm hơn. Khi điều hòa tiên đoán thời tiết trạm TV Denver, toàn màn ảnh là bản đồ thời tiết tiểu bang. Một lần nữa chúng ta thấy cùng đốm màu giống như ở thang số lớn hơn. Có mây trên Colorado Springs và nhiệt độ khá lạnh, nhưng vùng Aspen bầu trời quang và ấm. Sự tiên đoán thời tiết làm bật cười một vài người bộ hành dọc theo rìa biên Independence Pass gần Aspen. Và ngay bây giờ, ở thang số tương đối nhỏ, có mưa. May mắn thay, từ vị trí thuận lợi đó họ nhìn thời tiết một cách cục bộ. Về thung lũng phía Tây bầu trời quang đãng, và khi di chuyển từ đèo này tới đèo khác dọc theo bờ rìa, họ kinh nghiệm một loại thời tiết thu nhỏ, thoáng qua không khí lạnh và ấm của ao hồ, cường độ đổ mưa nhanh hoặc chậm, và ngay cả một thoáng tia sáng mặt trời.
Rõ ràng, thời tiết ở những thang số khác nhau phô bày sự tự tương đồng, một cấu trúc fractal. Một cách để giải thích điều này, thời tiết thì toàn nhất, có nghĩa là giữa những phần của nó (đằng trước, những mảng mưa hay tuyết, vùng áp xuất cao hay thấp) là “phần của những phần” khác, và “phần của những phần của những phần” (ngay dưới sức nóng dìu dịu đang tỏa ra từ thân thể đẫm mồ hôi của một trong những người đi bộ, hoặc sức nóng của chất hóa học tạo ra bên trong sớ bắp thịt đang căng dãn). Kết quả là khi tất cả “những phần” này và “phần của những phần”bắt đầu tiếp dẫn lẫn nhau, chúng tạo ra hình ảnh (như bản đồ thời tiết) mà dạng thức có chi tiết tỉ lệ. Những dạng thức này minh họa sự kiện, sự chuyển động toàn thể hệ thống tiếp tục xảy ra ở mỗi thang số.
Trong thế giới trừu tượng Euclid, thang số không quan trọng, vì khi khuếch đại hình cầu, hình tam giác, hình vuông, hoặc đường thẳng không sinh ra nhiều thông tin mới. Trong thế giới fractal có những nếp gấp, nếp uốn, đưa tới những chi tiết vô tận, và thông tin càng lúc càng nhiều. Trong thế giới Euclid, nhà quan sát chuyển bước nhảy gián đoạn từ đường thẳng một chiều kích, hình vuông hai chiều kích tới hình khối ba chiều kích. Trong thế giới fractal, những chiều kích lộn xộn như trái banh xoắn lại, và đối tượng không phải hai hay ba chiều mà ở giữa đâu đó. Thực ra, hình học fractal được biết như hình học giữa các chiều kích (geometry between dimensions). Tùy thuộc nếp gấp hay phần mảnh, đối tượng của fractal có thể là bất cứ một trong những số vô cùng tận của chiều kích fractal.
Hình ảnh fractal tăng sự suy xét về hiện thực như nơi chốn làm bởi những thế giới bị gấp lại bên trong thế giới tự tương đồng – đó là, thế giới bị gấp lại giữa các chiều kích. Cúi xuống nhìn đám rêu trên kè đá, chúng ta thấy một rặng núi thu nhỏ che phủ cây cối, một thế giới vi mô của quang cảnh rộng lớn. Nhưng nếu đúng là mọi thứ trên hành tinh này tiến hóa qua tác động mạnh mẽ với mọi thứ khác, có lẽ chúng ta không ngạc nhiên về những hình ảnh tự tương đồng toàn nhất ở chung quanh. Những ngón tay trên bàn tay tự tương đồng với cánh chim họa mi và vây cá voi. Sau cùng, tất cả chúng ta tiến hóa bên trong một hệ thống động lực toàn nhất là cuộc đời.
5. Computer là cái kính hiển vi
Khi nhà khoa học và toán học bắt đầu làm việc với hình học fractal, họ ngạc nhiên khi tạo ra hình thể fractal rắc rối trên màn hình computer với phương thức phi tuyến tính rõ ràng đơn giản. Những phương thức này có hạn kỳ phản hồi: kết quả của phép tính cho thấy, vào trở lại một phương trình và phương trình đó hoạt động lại. Tiếp tục cho chạy lại một phương trình mà đầu vào lại là chính nó, đó là tiến trình trùng lặp. Điều này dẫn tới sự phức tạp dị thường, đôi khi là cấu trúc đẹp một cách kỳ quái phô bày fractal tự tương đồng. Một trong những cấu trúc nổi tiếng tạo ra từ computer để lập lại phương trình liên quan tới một bộ đặc biệt của những con số được đặt tên theo nhà toán học Benoit Mandelbrot, người đầu tiên khám phá ra vẻ đẹp của chúng.
Sự tự tương đồng tinh vi, thanh nhã và quái lạ xuất hiện dọc biên giới Mandelbrot set, tạo dựng biểu tượng thuần toán học về tiến trình hỗn mang của thế giới thực mà ở đó fractal tự tương đồng hiện hữu, nương theo mép rìa của gợn sóng, trong vùng nứt gẫy, và luồng khí thời tiết. Những nhà khoa học bây giờ thường xuyên dùng phương thức fractal lập lại, làm mẫu mực cho sự hồi chuyển và mở ra của hệ thống động lực thực, như dòng chảy rối của nước và nhiên liệu khí.
Thật khó phỏng đoán vai trò của computer trong cuộc cách mạng về fractal và hỗn mang. Nếu không có khả năng tính toán, lập lại phương trình hàng triệu lần, cuộc cách mạng có lẽ đã không thể xảy ra. Tốc độ cao, con số bị nghiền nát bởi computer trở thành sự nghiên cứu về hệ thống động lực phức tạp, như kính hiển vi nghiên cứu vi trùng học, bộ gia tốc hạt nghiên cứu về cấu trúc hạ tầng nguyên tử, và kính viễn vọng nghiên cứu về khoảng không gian mênh mông. Computer chú tâm vào hiện tượng chưa từng thấy trước đó. Sức mạnh computer làm hình ảnh sinh động từ những mẫu toán học, tăng sự hiểu biết về nét đẹp phức tạp của hỗn mang. Một kết quả ngạc nhiên đã kéo hai nền văn hóa lại với nhau sau cả trăm năm, nếu không nói là cả ngàn năm, bị ngăn cách.
6. Sự khám phá ra thẩm mỹ mới (và cũ)
Lý thuyết hỗn mang và hình học fractal kéo dài khả năng của khoa học để làm những gì đã làm xong: tìm thấy trật tự bên dưới sự rối loạn. Tuy nhiên, trật tự của hỗn mang cũng xác định giới hạn khả năng của chúng ta. Với computer, nhà khoa học có thể thấy hỗn mang, hiểu luật lệ của nó, nhưng không thể đoán trước hoặc kiềm chế. Tình trạng bất định trong lý thuyết hỗn mang và hình học fractal vọng lại hai khám phá khoa học của thế kỷ này: tính bất định nền tảng mà định lý Goel tìm thấy ẩn trong toán học và một chuỗi bất định của thực chất nguyên tử và nghịch lý được phát hiện bởi cơ học lượng tử. Khoa học, trong thế kỷ này, học được sự cố ý của thiên nhiên đằng sau tấm màn che, áp đặt một trật tự tế vi, và luôn luôn vượt ra ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.
Những nghệ sĩ luôn luôn tận dụng và đánh giá những gì gọi là “trật tự trong bất định.” Nhà thơ lãng mạn Anh John Keats khâm phục những gì ông gọi “ khả năng thụ động,” khả năng hình thành “trong bất định, bí ẩn, và hồ nghi.” Ông cho rằng khả năng này là chìa khóa cho sức mạnh sáng. Leonardo da Vinci nhấn mạnh, “họa sĩ không hoài nghi, sẽ rất ít thành đạt,” và ông khuyên những nghệ sĩ lớp sau tìm sự hứng khởi cho tác phẩm trong những vết màu trên tường. Những nghệ sĩ đã khám phá, từ muôn đời, trong hoài nghi, bất định và ngẫu nhiên của đời sống, sự hài hòa đi thẳng tới yếu tính của hiện hữu. Bất cứ gì mà những họa sĩ, nhà thơ, hoặc nhạc sĩ mô tả – trừu tượng hay hiện thực – cuối cùng, tác phẩm của người nghệ sĩ ám chỉ thế giới trong những thế giới. Bên trong nghệ thuật luôn luôn có cái gì khác hơn những gì có thể bắt gặp bằng mắt, trí tuệ hay tai nghe. Bởi vì khả năng này gợi ra thế giới trong những thế giới, nghệ thuật luôn luôn fractal. Khoa học về hỗn mang giúp định nghĩa thẩm mỹ một cách mới mẻ, nằm dưới đáy những ý tưởng thay đổi nghệ thuật của từng thời kỳ khác nhau, văn hóa và trường phái.
Rất nhiều nghệ sĩ đương thời, như họa sĩ phong cảnh ở Connecticut Margaret Grimes, nhận ra trong lý thuyết hỗn mang sự nối kết sâu xa, khuynh hướng nghệ thuật cá nhân đối với thế giới. Grimes nói: “Những ý tưởng xác nhận có tính cách toán học điều tôi đã hiểu thấu rồi, kinh nghiệm qua sự quan sát về thiên nhiên. Những lý thuyết như vậy có tính cộng hưởng lớn, như sự thật mà chúng ta biết nhưng không biết diễn đạt làm sao.”
Họa sĩ New York, Nachume Miller, tham dự cuộc triển lãm nghệ thuật năm 1989 về hỗn mang, nhận xét, lý thuyết hỗn mang được áp dụng, chẳng những trên chủ đề mà còn trên tiến trình nghệ thuật qua đó tác phẩm trở thành hiện hữu: “cách mà tôi tiến hành hoàn toàn hỗn mang, không có gì rõ ràng. Chúng ta trả lời một chuỗi những biến cố xảy ra khi làm việc. Mới đầu là một kịch bản rối rắm trên mặt bố. Chúng ta không thật sự biết nó là gì. Ngay cả không thích nó, và nhìn thêm, làm quen dần dần với những gì xảy ra, chúng ta sẽ dần dần sáng tỏ.”
Nhiếp ảnh gia ở Oregon Joe Cantrell diễn tả tiến trình tương tự trong tác phẩm của ông: “Trật tự ở ngoài đó, trong rất nhiều bề mặt, từ đó chúng ta hoặc không có nhận thức nào hoặc đã được huấn luyện để không nhìn thấy nó. Tôi giật mình vì ngạc nhiên. Tôi thường nhập vào những chủ đề tầm thường. Nghệ thuật nhiếp ảnh tiến hành khả quan khi chúng ta ở trong tình trạng tự đánh mất mình. Chúng ta cảm thấy một điều gì thật tuyệt vời, ở phút cuối, nhưng không thể nhớ từng chi tiết cho tới khi nhìn thấy kết quả sau cùng.” Kết quả là một bản ghi fractal giữa sự tác động với chủ đề, thông thường là tự chính đối tượng fractal như nhánh dương sỉ, núi lửa, và rối nước. Thẩm mỹ mới (và cũ), qua hỗn mang, có thể diễn tả như sau:
Đó là toàn nhất: sự điều hòa trong đó mọi thứ đều bị ảnh hưởng bởi những thứ khác. Trong fractal toán học và tự nhiên, tính toàn nhất xuất hiện như sự tự tương đồng, chứng cớ của tiến trình phản hồi toàn nhất – có thể được ghi nhận từ sự biến đổi vô tận – không tạo bởi sự hoán vị mù quáng của vài hình thức ở những thang số khác nhau. Hơn thế, nó gần với sự tự tương đồng khi so sánh bàn tay con người với cánh chim họa mi, vây cá voi, và một nhánh cây. Công việc của nghệ sĩ là tìm ra và diễn tả sự liên hệ có ý nghĩa, giữa hình thức và chất lượng tự tương đồng và tự khác biệt cùng một lúc, để tạo ra tác phẩm nghệ thuật cho phép chúng ta, thoáng bắt sự tự nhiên toàn nhất của vũ trụ và sự hiện hữu của chúng ta trong đó. Miller nói về tác phẩm của ông, “nếu lấy một mảnh trong tác phẩm, dạng thức điển hình tôi dùng, trên nguyên tắc nó rất giống toàn thể bức tranh. Nó có cùng một loại lý giải như cái toàn thể.”
Miller nhấn mạnh, người nghệ sĩ không cố “tiêu biểu” cho tự nhiên. “Thay vì phác họa tự nhiên để bức tranh giống như tự nhiên.” Chúng nên giống hình thái đời sống – và đặc điểm chủ yếu của hình thái đời sống, trong cách fractal, tự nó phản ánh hệ thống động lực của tự nhiên như một toàn thể. Yếu tố toàn nhất là đặc điểm của cảm thụ thẩm mỹ mới (và cũ). Đó là tại sao khi chúng ta nhặt lấy viên sỏi màu lấp lánh trên bãi biển giữa những mớ lộn xộn, dù rằng nó có thể không hấp dẫn ở nơi hỗn mang tự nhiên. Cắt một lối đi trong rừng hay một đường cái trong rừng già, qua động tác của chúng ta, toàn cảnh trở nên biến đổi. Hỗn mang khẳng định chi tiết cá thể của vật chất. Những nghệ sĩ biết rằng giống như sự nhạy cảm của hệ thống động lực hỗn mang, thay đổi một phần nhỏ của bức tranh hay bài thơ có thể hủy diệt hay biến đổi tác phẩm.
Tính toàn nhất của thẩm mỹ mới mang lại mối quan hệ mới (và rất cũ) giữa người quan sát và vật thể được quan sát. Gốc Hy lạp của chữ thẩm mỹ gợi ý, kinh nghiệm thẩm mỹ liên quan tới sự biến đổi, thay thế cho cả đối tượng và người quan sát. Khoa học giả thiết một cách truyền thống, người quan sát có thể đứng ngoài và trở thành đối tượng về những gì mà họ quan sát. Lý thuyết hỗn mang khám phá, tuy nhiên, những nhà quan sát là phần không thể tách rời của hệ thống động lực, điều mà những nghệ sĩ luôn luôn hiểu được. Với lý thuyết hỗn mang, không còn có thể giả thiết, người quan sát có thể phân tích một cách thanh thản một đối tượng hoặc tiến hành trong phần cấu thành của nó (sự giả thiết đó trong khoa học được gọi là “thuyết hoàn nguyên”), bởi vì “những phần” là động lực và vì thế có những hiệu ứng không thể đoán trước. Grimes tóm tắt mỹ thuật mới khi bà cho rằng sự thấu đáo về “cấu trúc/tiến hóa, ổn định/ tự phát – sự sinh sản vô tận: Dạng thức mà chúng ta nhận biết, được cấu thành của những dạng thức đan dệt khác biệt vô cùng tận. Ý niệm về trật tự và hỗn mang phản ánh mối liên hệ tuyệt đối của toàn thể và ý nghĩa vô tận của từng phần, dù đó là một yếu tố, một hành động hay một tiến trình.”
Nghiên cứu về hỗn mang rõ ràng đã làm những nhà khoa học nhạy cảm đối với kinh nghiệm thẩm mỹ của nghệ thuật. Paul Rapp, nhà thần kinh học ở Medical College, Pennsylvania, thừa nhận, hình dạng ông biểu thị trên computer dù không thể so sánh với “monet tệ hại nhất.” Nhưng ông diễn đạt với sự nhiệt thành của một nghệ sĩ, phản ứng đối với biểu thị fractal này – tiêu biểu toán học của sự suy nghĩ trong trí óc con người. Những bức hình video về dữ kiện điện não ký chỉ ra, sự hoạt động điện từ của bộ não hỗn mang và bất khả đoán, trong đó một trật tự ẩn, bị lôi cuốn đối với một vùng chắc chắn của phần không gian thiết kế. Ông nói về sự khám phá ra những vùng quyến rũ kỳ lạ của fractal trong bộ óc: “Tác động cảm xúc của hình ảnh điện ký não, với tôi, thật đáng kể. Đầu tiên chúng ta có thể nhìn thấy những thay đổi trong hình học của hoạt động điện ký não xảy ra như là kết quả của hoạt động tri thức con người. Trước những attractor này được cấu tạo, tôi không biết chờ đợi gì. Tôi chờ đợi để nhìn thấy điều gì rất buồn chán, không thay đổi một cách có ý nghĩa như chủ thể bắt đầu nghĩ. Lúc mà những cấu trúc này tràn ngập trên màn ảnh và bắt đầu xoay tròn, tôi biết rằng tôi đang nhìn thấy điều gì phi thường.”
Scott Burns, giáo sư giảng dạy về môn công nghệ tổng quát trường đại học Illinois ở Urbana-Champaign, nhìn thấy những hình ảnh ông tạo ra từ hỗn mang toán học kích thích sự thán phục của người xem. “Một bạn đồng sự của tôi nói, ‘đây quả là căn bản về niềm tin Thượng đế.’ Tôi không đi xa hơn nhưng chắc chắn, đó là căn bản về lòng tôn kính thiên nhiên.”
Để có cảm giác làm sao thẩm mỹ hỗn mang mang hai nền văn hóa khoa học và nghệ thuật lại với nhau, so sánh với tuyên bố của Mario Markus, nhà vật lý ở Max Planck Institute, Dortmund, Đức quốc, và Eve Laramée, nhà điêu khắc ở New York.
Trong phòng thí nghiệm, Markus tạo ra những hình ảnh fractal duyên dáng, ký quái và ám tối, một tập hợp quan trọng của những phương trình dùng cho mẫu rối loạn. Markus kiềm chế qua những biến số như phương trình để mô tả, giá trị toán học để bắt đầu, màu sắc phân định giá trị, thang số và mức cường độ để dùng, ông nói, giống như sự kiềm chế mà nhà nhiếp ảnh thực hành qua chủ đề mà không phải bấm cái nút kỹ thuật trên computer. Ông lý luận, “những chọn lựa đặc biệt của một cá nhân, so sánh với những chọn lựa của người khác, cho phép chúng ta nhận biết ‘phong cách.’ của họ. Thật sự có thể nói rằng những phương trình còn có thể coi như một loại tranh vẽ mới bằng bút lông.”
Laramée sáng tạo những công trình nhìn giống cổ đại từ đồng, muối và nước. Có lần bà lắp ráp tác phẩm trong một phòng triển lãm, muối hòa tan và bắt đầu ăn những hình thể fractal phức tạp vào đồng, qua thời gian. Trong khi Markus cố tự lồng vào những phương trình của ông và áp dụng vài kiềm chế để hỗn mang tự động lộ ra, Laramée tách mình ra khỏi tiến trình và để hỗn mang thường xuyên cuốn vào. Bà nói, “Đó là điểm nơi tôi ‘di động’ bàn tay của người nghệ sĩ, và để cho tự nhiên tiếp tục hoàn tất tác phẩm.” Như vậy thẩm mỹ mới sáng tạo bởi hỗn mang đánh bẫy cả nghệ sĩ và khoa học gia, cả người quan sát và bị quan sát. Cái gọi là bức tường đối tượng/chủ thể, qua thế kỷ đã ngăn cách những nhà khoa học và nghệ sĩ tiếp cận với thiên nhiên và bây giờ đang bị vỡ ra từ cả hai phía.
7. Một vũ trụ đầy hỗn mang và fractal
Những nhận thức hầu như thay đổi hàng giờ như những nhà nghiên cứu khoa học và nghệ thuật soi xét qua cửa sổ của fractal và hỗn mang để khám phá dạng thức có ý nghĩa của sự bất định ở khắp nơi: bề mặt của một vài siêu vi bây giờ được biết là fractal. Nhịp điệu và ký số fractal rõ rệt được tìm thấy trong cơ quan nhận dopamine, men và chất dẫn truyền thần kinh trong bộ óc. Hình học fractal được dùng để diễn đạt sự thấm dầu qua sự cấu thành đá. Nhà soạn nhạc tạo nên loại âm nhạc fractal: nhà thảo chương đang nghiên cứu hiệu quả của hỗn mang trên mạng lưới computer; nhà hóa học áp dụng fractal vào sự sáng tạo chất nhựa tổng hợp và chất liệu đồ gốm; nhà kinh tế học áp dụng fractal tìm ra vị trí vùng quyến rũ kỳ lạ ẩn dưới sự thăng trầm của chỉ số thiếu hụt và tiêu chuẩn; nhà sinh thái học dùng nguyên tắc của sự tự tổ chức của hỗn mang để cấu tạo lại môi trường sống đã mất; những mẫu phi tuyến tính đã làm thành cuộc đua vũ trang quốc tế. Một nhà tiểu thuyết táo bạo đã dùng ý tưởng về vùng quyến rũ kỳ lạ trong tiểu thuyết khoa học giả tưởng, đánh giá hỗn mang với sự bất tử.

(*) Thời điểm đầu những năm 2000, ông Trương Gia Bình đã đưa ra lý thuyết Fractal – tính bất biến của cấu trúc để áp dụng vào FPT.
read more...

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

SỬ THI RAMAYANA CỦA ẤN ĐỘ: LỜI NGUYỀN CỦA ĐẠO SĨ GOTAMA



SỬ THI RAMAYANA CỦA ẤN ĐỘLỜI NGUYỀN CỦA ĐẠO SĨ GOTAMA
HỒ ĐẮC DUY

Ấn Độ là nước có một nền văn minh, văn hóa đạt đến trình độ hoàn chỉnh và sớm nhất trê thế giới
Ngoài bộ sử thi Mahabharata thì bản anh hùng ca Ramayana là một tác phẩm vĩ đại của Ấn Độ, nó xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước Công Nguyên, nhân vật chính trong sử thi này là chàng Rama và nàng Xita
Rama là con trai của Hoàng đế Daxaratha và Xita là con gái của Gianaka
Tác phẩm này đã ảnh hưỡng đến toàn bộ nền văn minh của Ấn Độ trong mọi thời đại và trong mọi hoàn cảnh, nó đã đi sâu vào tất cả tầng lớp nhân dân Ấn Độ cho dù đó là trí thức hay người nông dân cho dù đó là nhà thơ, nhà văn hay là người làm chính trị, tu sĩ
Trong sử thi Ramayana có viết về câu chuyện đạo sĩ Gotama bắt gặp vợ đang ngoại tình với một người đàn ông trên giường ngũ và ông đã thốt ra một lời nguyền đối với tình địch như sau : “ ... ta biết ngươi rồi, tính đam mê đến ám ảnh đối với giống cái là tai họa của ngươi. Như vậy sẽ có hằng nghìn dấu vết của giống cái phủ lên thân thể ngươi để cho mọi người trên khắp cõi trần có thể hiểu được đầu óc ngươi luôn luôn có gì đang thực sự diễn ra trong đó ”.
Những lời này vừa thoát ra khỏi môi đạo sĩ thì lập tức hàng nghìn bộ phận sinh dục của người phụ nữ hiện lên trên khắp thân thể của kẻ tình địch.
Đó là một phần mà đạo sĩ Vivamitra kể cho Rama nghe trong câu chuyện “ Nàng Ahalia ”
Câu chuyện đó bắc đầu khi Brahma, đức sáng thế tạo ra một người đàn bà, ngoài cái đẹp tuyệt đối, nàng được đặt tên là Ahalia, một cái tên phù hợp với dáng dấp của nàng, Ahalia nghĩa là đẹp tuyệt vời
Đức Brahma giao cô gái bé nhỏ cho đạo sĩ Gotama nuôi nấng, cô lớn lên trong sự chăm nom, săn sóc của vị đạo sĩ, cho đến lúc Ahalia trưởng thành thì Gomata đem trả nàng lại cho đức Brahma và Gotama xin đấng sáng thế cưới nàng làm vợ
Đức Brahma đánh giá cao tấm lòng tinh khiết và tư tưởng trong sáng của vị đạo sĩ, con người chưa hề có một lần để gợn lên những ý nghĩ tầm thường về xác thịt trong suốt thời gian dài nuôi dưởng cô bé, ngài phán : “ Con hãy lấy nó đi, nó xứng đáng là vợ của con, hay nói đúng hơn là chỉ có con mới xứng đáng làm chồng Ahalia ”
Ahalia đã lấy chồng như vậy và nàng được đức Brahma cùng các vị thần khác ban phúc cho, nàng đã sống với Gotama suốt cả thời thơ ấu nên Ahalia biết rõ tính nết của chồng và đã tỏ ra một người vợ tuyệt vời .Họ đã sống hạnh phúc bên nhau
Thần Indra vốn là một vị thần cao cả nhất trong các vị thần của đấng sáng thế, người say mê vẽ đẹp của nàng Ahalia và đinh ninh chỉ có mình mới xứng đáng lấy nàng làm vợ .
Không thất vọng và bỏ cuộc mặc dù đấng sáng thế khuờc từ lời cầu hôn của mình, Indra vẫn theo đuổi và không từ bỏ những ảo vọng xấu xa đối với Ahalia, Indra thường hay đến gần lều cỏ của Gotama dưới nhiều lối hóa thân khác nhau để hể có dịp là ngắm nhìn và thưởng thức khuôn mặt và dáng hình của Ahalia .
Thần theo dỏi những thói quen của đạo sĩ Gotama và biết rằng hằng ngày đạo sĩ thường rời lều cỏ vào lúc bình minh đi ra sông để tắm và để cầu kinh khoảng hai giờ, không thể chịu đựng mối tình hờ hững như thế này nữa, Indra quyết định dùng mưu mô lừa bịp để chiếm trái tin của nàng
Một hôm, khó lòng đợi đến giờ cho đạo sĩ ra đi theo thường lệ, Thần Indra đã giả tiếng gáy của con gà trống đánh thức đạo sĩ dậy, vị đạo sĩ tưởng trời sáng nên đã ra đi
Bấy giờ Indra mới đội lốt đạo sĩ rồi chui vào trong lều và làm tình với Ahalia . Nàng thuận tình nhưng chẳng mấy chốc nàng mới nhận ra rằng kẻ đang hành lạc với mình không phải là Gotama, chồng nàng, nhưng nàng đã không làm gì được nữa rồi
Ngay lúc đó Gotama quay về lều cỏ, trong lòng tự nhiên cảm thấy có điều gì không hay và bắt gặp cả hai trên giường
Ahalia đứng sang một bên vừa xấu hổ vừa hối hận còn thần Indra vội biến thành con mèo và tìm cách chuồn đi, đạo sĩ nhìn hết Ahalia rồi lại nhìn con mèo, ông chận con mèo lại và nói với nó ..... ... ta biết ngươi rồi
Sau khi Indra biến đi, trở về thế giới riêng tư của hắn, đạo sĩ nhìn vợ và nói : “ Thân thể của nàng đã phạm vào tội lỗi. Hãy để cho cái thân thể đó cứng lại thành một tảng đá không có hình thù rõ ràng, ngay ở nơi nàng…”.
Ahalia thất vọng và van xin ; “ Thiếp đã phạm phải một sự nhầm lẫn nghiêm trọng, những tâm hồn cao cả xưa nay vẫn tha thứ cho những lầm lạc của những kẻ thấp kém hơn mình .... và rồi nàng đã cảm thấy một sức nặng lạ lùng đang thấm dần, thấm dần trên đôi chân, nàng thều thào ...xin chàng làm một diều gì để giúp thiếp .. ”
Lúc này đạo sĩ cũng thấy khổ tâm và nói với vợ : “ Khi nào chàng Rama, con trai của Hoàng đế Daxaratha đi qua con đường này vào một ngày nào đó thì nàng sẽ được cứu rỗi ”
“ Bao giờ và ở đâu ” nàng thất vọng hỏi lại .....nhưng trước khi lời nói ra khỏi môi thì nàng thì nàng đã biến thành một tảng đá rồi
Tình cảnh của Indra lúc đầu đã trở thành một trò chơi trong cõi trần nhưng về sau thì thấy rõ là bi thảm quá. Indra luôn ở trong bóng tối và chui rúc trong các xó xỉnh, không bao giờ dám ra trước mặt người khác. Điều đó đã làm động lòng trắc ẫn các vị thần, hơn nữa, những nhiệm vụ trăm hình nghìn vẻ trong thế giới khác nhau đều phải ngưng lại vì không có Indra, một kẻ khôn ngoan, hiểu biết thì mọi việc trên thế gian này đình trệ nên họ đã kéo một đoàn đến gặp đức Brahma, xin Người can thiệp giúp với Gotama.
Bấy giờ, nỗi bực dọc trong lòng đạo sĩ cũng đã nguôi và đạo sĩ đã đáp lại lời kêu gọi của đức Brahma, ông ta nguyện rằng : “ Cho một nghìn thứ đã cộng thêm vào dáng dấp của Indra đều trở thành mắt cả”. Về sau, do đó mà Indra đã trở thành “vị thần nghìn mắt”.
Thần Indra vốn là vị thần cao cả và hiểu biết nhất trong các thần, một nhân vật được mô tả là khôn ngoan chỉ sau đức Brahma sáng thế mà chỉ vì nỗi đam mệ nhục dục mà đã mắc phải một lời nguyền vô cùng ấn tượng của đạo sĩ Gotama
Ahalia có phải là nạn nhân của việc cưỡng dâm hay là ở nàng đã
có một sự đồng thuận với Indra
Đạo sĩ Gotama đã nguyền rủa để cho Ahalia vợ mình biến thành tượng đá cũng chỉ vì ghen
Suy ngẫm để hiễu được sự biến thể giữa cơ quan sinh dục nữ thành ra cơ quan thị giác chỉ bằng một góc xoay 90 độ trong lời nguyền của đạo sỉ Gotama quả thật không phải là dể,
Điều nhận xét và cái triết lý của câu chuyện nàng Ahalia phải chăng sự khôn ngoan lại bắt đầu từ một nơi thầm kín của người phụ nữ mà ra
Kết thúc câu chuyện là lời cầu xin của đạo sĩ Vivamitra, người đã từng làm vua, người đã từng có nhiều chiến công hiễn hách và tên tuổi của ông là niềm sợ hải cho biết bao nhiêu người và quỷ dữ với Hoàng tử Rama khi Hoàng tử đi ngang qua nơi mà nàng Ahalia hóa đá
“ Hởi đại nhân, ngài sinh ra để phục hồi đạo đức, lẻ phải cho nhân loại và tiêu diệt mọi tội ác ”

HỒ ĐẮC DUY
read more...

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

MIềN ĐấT HUYềN ảO (CÁC DÂN TộC MIềN NÚI NAM ĐÔNG DƯƠNG) - Phần XII

MIềN ĐấT HUYềN ảO (CÁC DÂN TộC MIềN NÚI NAM ĐÔNG DƯƠNG) - Phần XII
Tác giả: Dam Bo
Nguồn: NXB Hội nhà văn
Chủ đề: Dân tộc học , Văn hóa - Phong tục



Các điều khoản của bộ luật
Nghiên cứu phân tích và so sánh
Khi nghe đọc các luật tục, từ tộc người này đến tộc người khác, ta có thể nhận ra một điểm nổi bật là sự giống nhau về bản chất, dầu họ ở xa nhau và có các phương ngữ khác nhau. Ðương nhiên là có những biến thể, liên quan đến chế độ gia đình, đến việc kế thừa, về trách nhiệm, nhưng nền tảng - cả nguồn gốc nữa, hẳn vậy - đều là chung, cùng một tinh thần ấy, hình thức vần thông theo cùng một nhịp điệu.
Hiện nay mới chỉ có bộ luật tục Êđê được sưu tầm và xuất bản đầy đủ. Một nghị định ban hành năm 1923 đã chính thức hóa bộ Biduê này:
"Việc xét xử được tiến hành theo tục lệ bản địa ở Ðaklak:
"do các trưởng làng và các po lan, chủ đất,
"do tòa án được thiết lập ở trụ sở tỉnh...
"Việc xét xử tại các tòa án ở làng và tòa án tỉnh phải tuân theo: 1° pháp chế của luật tục truyền miệng dưới hình thức gọi là Biduê; 2° các lối vận dụng riêng của từng tộc người..."

Luật tục Srê, hay Nri, đã được sưu tầm và nay mai sẽ được xuất bản. Ðối với các tộc người khác, công việc mới chỉ còn ở giai đoạn mầm mống... Nên việc nghiên cứu của chúng tôi sẽ tập trung chủ yếu vào bộ Biduê và bộ Nri, mà chúng tôi sẽ phân tích và so sánh, nhận ra ở đấy kết quả của một tư duy chung, chung cho những người Tây Nguyên, chung cho nhiều dân tộc khi họ còn ở giai đoạn đầu này trong lịch sử của họ. Ðặc biệt, tư duy Hébreu khi nói về các chân lý lớn cũng vậy; có những câu châm ngôn trong các Sách Thánh giáo mà ta có thể gặp lại, gần như là dịch nguyên văn trong Luật tục:
"Dấm đối răng và khói đối với cọn mắt thế nào, thì kẻ lười biếng đối với người gửi nó đến cũng hệt thế."(Cách ngôn 10)
"Người đầu tiên nói trong vụ kiện của anh ta có vẻ đúng; rồi đến lượt phe đối lập và người ta sẽ xem xét."(Cng. 18)
"Cũng như lửa làm cho cục sắt trở thành bén, một kẻ này kích động sự tức giận của kẻ khác."(Cng.27) - "Kẻ nói nhẹ nhàng làm ta bị thương như một mũi kiếm; nhưng lời nói của người hiền lại chữa cho ta lành."(Cng. 12) (Biduê số 22) - "Kẻ đem đến một bằng chứng giả dối chẳng khác gì một mũi tên."(Cng. 25)
"Như con chim sổ lồng, như con én tung bay, lời nguyền rủa không có nguyên nhân chẳng tác dụng gì."(Cng. 26)
"Ðừng có sàn theo mọi hướng gió, và đừng có đi bất cứ con đường nào; con người có cái lưỡi kép là như vậy đấy." (Hội thánh 5)
Ngay cả hình thức thơ cũng tuân theo những quy luật giống nhau, về nhịp điệu và vần thông.
Truyền thống còn giữ được sinh động một hệ thống pháp lý chuẩn xác và có tổ chức đến mức ta có thể nói đến một "Tập quán pháp", xác định cách ứng xử của mọi người và được mỗi người biết đến, bộ luật về những mỹ tục của cuộc sống ở Tây Nguyên, bộ luật truyền khẩu và chặt chẽ, di sản của tổ tiên và là tài sản của nhân dân. Bộ Luật là một thứ "viên nén" về cuộc sống ở đây; đọc sưu tập bộ luật tục ấy, ta có thể dựng nên một bức tranh khá hoàn chỉnh về cuộc sống đó. Vì yêu cầu của việc trình bày, chúng tôi đã nghiên cứu riêng phần luật pháp và phần tôn giáo, nhưng trong thực tế không hề có ngăn cách giữa các hiện tượng tôn giáo và các hiện tượng luật pháp.
Chúng ta có thể có một ý niệm về tổng thể một kết cấu như vậy và tầm rộng lớn của lĩnh vực mà nó bao quát, khi đọc mục lục của bộ Biduê Êđê, mà hầu hết các điều mục cũng thấy có ở bộ Nri:
"- Về các hình phạt, về các vụ tòng phạm, về những người vu khống...;
"- Về các tội ác và tội chống lại người thủ lĩnh (không tuân lệnh thủ lĩnh,... về những người bỏ làng ra đi mà không báo cho thủ lĩnh...);
"- Về các tội ác và các tội do thủ lĩnh phạm (về người thủ lĩnh che dấu dân của mình, về người thủ lĩnh áp bức dân của mình...);
"- Về những tội ác và tội chống lại người khác (về những kẻ lang thang, những người có bệnh truyền nhiểm, những kẻ gieo phù chú, những kẻ đốt nhà, những kẻ lười biếng...);
"- Về việc cưới xin (lễ hỏi, hồi môn, luật thay thế, sự thủy chung, không chịu động phòng, ngoại tình, hiếp dâm, loạn luân, bắt cóc, phá thai...;)
"- Về cha mẹ và con cái (trách nhiệm, sự không vâng lời);
"- Về các trọng tội (giết người, đầu độc, đánh đập và gây thương tích, tai nạn; về những người điên, những người say rượu...);
"- Về tài sản (thừa kế, mua và bán, vay mượn, lãi, ăn trộm, trộm ngũ cốc, trộm súc vật);
"- Về gia súc (trâu chọi nhau, phá hoại mùa màng, bẫy...);
"- Về chủ sở hữu đất đai, quyền hạn và bổn phận của người po lan.
Toàn bộ cuộc sống công cộng và riêng tư đều được quy định ở đấy.
Kết cấu của bộ Nri cũng gần giống như vậy; tuy nhiên các chương về các thủ lĩnh (tội chống lại thủ lĩnh và bổn phận của thủ lĩnh) hạn chế hơn nhiều; điều về các tối chống lại người khác cũng rút gọn hơn. Luật hôn nhân ở đây cũng được coi trọng như vậy; trái lại không có vấn đề về cha mẹ và con cái; điều về các trong tội cũng phong phú như vậy; điều về tài sản càng rộng hơn, chiếm đến một phần ba các bản văn được đọc. Ở vùng người Srê, phần lớn các vụ xử kiện là về việc tranh chấp tài sản, của cải. Hầu hết các vụ khác là về chuyện nguyền rủa nhau.
Mỗi điều là một bài thơ tượng trưng nhỏ có nhịp điệu. Không thể nói là đối với mỗi trường hợp được nêu lên, vị quan tòa cứ máy móc đọc ra vài khổ thơ nào đó trong luật tục áp dụng trực tiếp vào trường hợp đó. Có những sáo ngữ có thể dùng ở mọi chỗ như: "vụ việc đã cũ như một cái củ rỗng", những công thức chung cho nhiều vụ việc; lại phải soạn ra, lấy ở chỗ này chỗ nọ những chuỗi kết hợp các hình ảnh chung thích hợp với trường hợp đưa ra. Vị quan tòa, sau khi nghe các bên, tìm một gung (con đường), nghĩa là sợi dây, cái chuỗi các câu nghi thức có nhịp đáp ứng đúng đề tài của mình; đã tìm được cái ấy rồi và đã bắt đầu đọc, là ông ta thao thao bất tuyệt, một hình ảnh này lại gọi hình ảnh kia do kết hợp ý tứ và vần thông; tam tiip, "chúng gặp nhau", chính họ nói như vậy [1]. Sau khi đã nghe đọc luật tục, mọi bàn cãi đều là thừa - "từ ngàn xưa đã như vậy rồi" - và sự vụ đã được giải quyết, những lời nói ngày xưa có sức nặng đến thế đấy.
Mỗi điều của Luật tục là một ẩn dụ được phát triển ra. Hình như nói chung bao giờ chúng cũng đi bên cạnh đề tài và không bao giờ có vế thứ hai của cặp so sánh; ta không bao giờ thấy được ý tưởng muốn đi đến đâu, khi các hình ảnh táo bạo đến thế. Rời bỏ lĩnh vực biểu tượng thuần túy, ý tưởng đột ngột tập trung vào trường hợp tranh chấp, vận dụng vào đó, bao gộp lấy nó và giải quyết vấn đề; thỉnh thoảng một ẩn dụ nhắc lại chuổi hình ảnh cổ xưa. Trừ một số ít ngoại lệ, việc tuyên án không nằm trong phần đọc luật tục.
Bộ Biduê có phần nói đến vế thứ hai nhiều hơn và thường chỉ ra cả hai vế của cặp so sánh; cứ trở đi trở lại kiểu: "Kẻ nào làm... cũng giống như...; nó có tội vì...". Bộ Nri chủ yếu gồm những lý do được diễn đạt một cách ẩn dụ, tới mức rất khó hiểu nếu ta không thật có thói quen và nhiều khi có những câu chữ vẫn tối nghĩa đến gây lúng túng.
Ở vùng Srê, có những cụ Già làng biết cách phân biệt trong bộ Nri những jönau yal, những lý do biểu tượng, có nhịp điệu, được hát lên và không ngừng trở đi trở lại - jönau cah rönya, sự vận dụng vào vụ tranh chấp đang xử và việc xử có tội hay không; hai phần của một ddös nri (ngôn ngữ luật pháp cổ) -, và jönau dous, món tiền phạt phải trả để giải quyết vụ việc, được nói bằng ngôn ngữ thông thường.
Như vậy hình phạt là một bộ phận ở bên cạnh của bộ luật; nó đã được biết trước vì theo truyền thống nó đã gắn liền với việc vi phạm một tục lệ nào đó. Ðấy là món tiền người vi phạm phải trả cho người bị thiệt, giá trị sẽ từ một ché rượu, đến một con gà, một con lợn, một con trâu hay một chiếc chiêng, tùy theo mức độ phạm tội [2] và ở vùng Êđê thì tùy theo sự giàu có của con nợ [3].
Không có chuyện phạt tù; nhưng ta thấy có phạt làm nô lệ: phải sống một thời gian ở nhà người chủ nợ, và làm việc cho anh ta; nhưng nói chung không có chuyện đối xử xấu. Tình trạng nô lệ có thể được chuộc bằng cách trả "giá thân thể": ở vùng Êđê là một chiếc chiêng bằng đường kính một khuỷu tay và một gang, ở vùng Srê là bảy chiêng, hay bảy trâu, hay bảy tấm chăn (oui lang). Người Srê không biết đến tội tử hình, nhưng luật tục Êđê có dự kiến tội này đối với bọn cướp và đốt nhà, ngày nay được giảm thành tù chung thân. "Người ta sẽ chém đầu nó bằng một thanh gươm lớn, sẽ cắt cổ nó bằng con dao sắc, và người ta sẽ vứt xác nó ra ngoài bãi cho kênh kênh và quạ, hay người ta dẫn nó vào rừng sâu, treo cổ nó lên một cái cây, và bỏ mặc nó cho thú dữ..."(Biduê, 49).


Ở vùng Srê, tội bị phạt nặng nhất là loạn luân, ngày xưa rất ít, ngày nay không còn thấy. Phải chuộc tội với các Thần linh bị xúc phạm và với dân làng. Ngày chuộc tội, lễ chuộc tội, hiến sinh và bữa ăn phải tiến hành trên một bãi cỏ, giữa trời, để Thần Mặt Trời chứng giám. Chất của vật hiến sinh phải đúng với chất của tội lỗi: loạn luân là sự đi lại của hai người giống nhau (về dòng máu), cho nên phải cúng những con vật giống nhau: bảy con gà trắng, bảy con dê trắng, bảy con lợn trắng, bảy con trâu trắng. Hai người có tội phải đeo gông suốt trong ngày giải tội công cộng đó. Thần Sấm trừng phạt những cuộc ghép đôi không phải phép; nhưng vì có sự ưa thích đối với tất cả những gì màu trắng, nên người ta cúng cho Thần những con vật màu trắng để Thần no đủ và cho con người được yên ổn.
Ðôi khi hình phạt là một lễ hiến sinh tạ lỗi đối với vị Thần bị xúc phạm, như trong trường hợp tội nặng mà chúng tôi vừa kể, hoặc như trong các trường hợp khác được nói đến trong Biduê: vì đã chôn cơm nguội trong rẫy của người khác, cúng một con lợn cho vị thần đất bị xúc phạm; vì đã xây một nấm mộ trong rẫy của người khác, cúng một con lợn trắng; người đàn bà góa đi lấy chồng trước khi bỏ mả phải cúng một con lợn cho hồn người chết; kẻ phạm tội hiếp dâm phải cúng một con trâu, v.v. (số 93, 117, 152 bộ Biduê).
Ðể có thể xem xét sự thống nhất về tinh thần đã chi phối Luật tục, được diễn đạt dưới nhiều hình thức khác nhau, và sự độc đáo trong cách diễn đạt ấy, chúng tôi xin dẫn ra song song sau đây, vài điều của bộ Biduê và bộ Nri, những "chuỗi" các công thức biểu tượng được đọc bằng một ngôn ngữ huyền bí:
Về người đàn bà không chịu tang trước khi bỏ mả chồng


"Mộ còn chưa đắp, nấm còn chưa xong, người ta còn chăm lo cho linh hồn người chết - mộ mở ra, quan tài dựng dậy, vì người vợ không để tang cho đúng - vì bà không để tóc xõa rối bù, vì bà không chống tay vào cằm, vì bà không để tang cho đúng đối với người chồng đã chết, mục nát như hạt thóc... - Gói thuốc, bà đem chia đôi (một phần cho người chết, một phần cho người tình); bà ve vãn người ta, bà ngủ với các ông chồng, bà kéo họ vào rừng; - khi mộ vừa mới lấp xong, khi nấm còn phải chăm lo, khi người ta lo việc người chết chưa xong, khi cây chuối và khoai chưa kịp trồng (trên nấm), khi con gà con chưa được thả ra, khi chưa ai quên người chết; khi chưa bỏ mả.
"Vì chuyện đó bà có tội và có vụ việc giữa gia đình người chết với bà. - Nếu gia đình người chết nghèo bà phải cúng một con trâu và trả một món đền. - Nếu gia đình người chết giàu bà phải cúng một con trâu..."(Biduê, 116).
..............................................................................................................
"Mộ còn chưa sập - nhà người chết còn chưa mọt - đất còn nhớ - vậy mà mày đã chặt ngay cây cột (= mày không tôn trọng tục lệ) - mày bước qua trên ta. - Mày coi khinh cái đầu ta như đầu một con cá nhỏ (mày không sợ xúc phạm ta, giống như người ta không sợ vồ một con cá vốn không có sừng để mà chống lại) - Nằm trên một tổ mối (để cho nó đốt), lấy tay mà đập vào tổ kiến (nt) - như thế là có những quan hệ bị cấm (= tức là có thể bị đòi nợ). - Trái cây rơi xuống người ta muốn ăn - trái cây ta trồng, mày không được ăn... (= không thể tái giá khi nào mình muốn) (Nri, 30).
Về việc thông dâm trong nhà người khác


"Người đàn bà mang đất [vào trong nhà] đến đầu gối, mang bùn đến háng, mang đất vào đầy nhà người khác; - những kẻ làm bẩn gối người khác, nhà người ta, nơi người ta đặt thuốc lá và trầu; - những kẻ bôi bẩn chiếu người khác, bôi cáu ghét lên chăn, giao hợp với nhau trong nhà người khác như lợn và như chó... - bọn u mê và đi vào nhà riêng của người ta làm bẩn cả chiếc áo đỏ... - những kẻ đó có tội và phải đền bù."(Biduê, 149).
...
"Ðất ở chân (đấy là chỗ của nó); mà mày lại bôi lên gối ta: đứa bé phải bú mẹ nó, mày lại đặt nó vào vú ta (việc nào có chỗ của việc ấy).- Người ta tập họp trong nhà để ăn thịt cúng; mày đã làm bẩn chân ta và đứa bé bám vào vú mà khóc (= trật tự và phong tục bị đảo lộn). - Có một món nợ, phải buộc dây dắt chó lại (= phải trả một món chuộc) - phải lấy cái chăn của mình một làm dây dắt (trả món chuộc này bằng chính của cải của mình)... - Ðể xóa món nợ này, phải trả sáu chiêng."(Nri, 37)

Về tội hiếp dâm


"Kẻ nào thấy muối muốn nếm, thấy ngựa hay trâu muốn cưỡi, thấy con gái hay vợ người giàu, con gái hay vợ của người ta muốn hiếp chẳng có duyên cớ; - nếu nó hiếp vợ người nghèo, đền một con lợn; - nếu nó hiếp vợ hay con gái người giàu, đền một con trâu."(Biduê, 152)
...
"Ði qua trên con chim börling, - đi qua trên con diều hâu đang ở dưới đất... - Tôi có một con ngựa cái đẹp, những kẻ quyền thế cưỡi nó; tôi có một con trâu cái đẹp, người ta lấy mất nó của tôi."(Nri, 34)

Về việc trộm ngũ cốc


"Kẻ nào giật khăn quấn đầu hay túi đeo vai người ta đang mang, kẻ nào, như linh hồn người chết hay như các thần, theo đuổi người đang làm đồng; - kẻ nào trộm đầy tay hay đầy thúng kê hay thóc, trộm thóc của người giàu hay thóc của anh em; - kẻ nào ăn trộm như thế cũng có tội như kẻ giết người; - và vì chuyện đó hắn ta phạm tội rất nặng."(Biduê, 203)
...
"Gỗ thường và gỗ rẽ nhánh (= có những sự vụ không quan trọng gì và những vụ khác giống như những cây gỗ rẽ nhánh rất được quý để làm các vật dụng nào đó) - có những con dế mèn nhỏ và những con dến mèn khó chịu; - chiêng chẳng giá trị gì và chiêng cổ (= có những vụ trộm nhỏ và những vụ trộm nặng).
"Ta tìm thấy con chuột đồng, ta giết nó (= ta sẽ làm như thế với tên trộm nếu ta tóm được nó); ta tìm thấy con chuột nhắt, ta giết nó; - một củ trồng, đào nó lên để lấy trộm; - rau trồng nhổ nó đi; - cắt lúa của ta, chưa chín, ta bắt mày. - Ta không bú nữa, mày lấy trộm lúa của ta, mày giết ta."(Nri, 65)
Chúng ta sẽ tìm thấy một sự thống nhất về cảm hứng như vậy khi so sánh các điều song song, về việc đặt lại một vụ việc đã xử rồi, về việc cháy rừng, cháy nhà, về việc hủy bỏ hôn ước, về sự chung thủy vợ chồng, về những kẻ lười biếng không chịu làm việc cho vợ, về ngoại tình, về những người cưới nhau không báo cho thủ lĩnh, về việc lấy trộm con mồi mắc bẫy, về việc lấy cắp cá trong lờ của người khác, về những kẻ giết gia súc đi vào rẫy của mình (điều 5, 80, 82, 95, 109, 112, 114, 129, 199, 207, 208, 228 trong Biduê)
Vài ví dụ dẫn ra trên đây cho thấy rõ ở bộ Nri một xu hướng súc tích tối đa trong cả một thác các ẩn dụ. Bộ Biduê có dáng vẻ một bộ luật hơn.


Tinh thần của pháp chế


Một cuộc xem xét các hiện tượng luật pháp truyền thống kể trên đã có thể cho phép ta nhận ra những quan niệm mà chúng thể hiện liên quan đến các lĩnh vực xã hội học, tâm lý học và đạo đức, và sự trôi trượt không thể tránh đến tôn giáo, là cái, như chúng ta sẽ thấy, bao gộp tất cả.
Chúng ta đã nói đến tổ chức xã hội ở Tây Nguyên; luật tục vừa là nền tảng thiêng liêng vừa là sự biểu đạt giản lược, mang tính biểu tượng, huyền bí của nó. Người Tây Nguyên có ý thức về một thiết chế vững vàng cho gia đình để tránh một sự chia xẻ con người và tài sản, sẽ là sự suy thoái của tộc người, sự sụp đổ của từng người và của tất cả, một sự bại hoại di sản tổ tiên. Chúng ta thấy dấu vết của ý thức đó trong nhiều điều của bộ Biduê hay Nri:
Sự tùy tiện của riêng một người không thể đủ để quyết định một cuộc hôn nhân (quan hệ giữa hai gia đình), một cuộc chia tay, một vụ bán tài sản. Phải họp hội đồng gia đình và nghe lới nói của người Già, của người bác-chủ tịch của hội đồng đó: "Người bác không được báo trước, ông không biết vì sao người ta đánh trống - người ta không nói chuyện đó với người bác xa - người ta không đưa vòng cho người Chàm. - Ðất và Trời không nhất trí (= khi có hai phía, thì phải bàn bạc để đi đến nhất trí) - khỉ và rùa không nhất trí - Một việc ta thích, nhưng mẹ lại có thể cho là xấu (dịch nguyên văn: "tai ta nghe thuận, mà mẹ thì lại nghe như bị bỏng") - chị có thể thấy là vô vị - cha có thể cho là đắng - thủ lĩnh có thể cho là dai"(vậy thì phải xin họp hội đồng và báo cho những người lớn biết) (Nri, 32, Biduê, 129).


Trong tinh thần của Hội đồng này, mối lo ưu tiên sẽ là bảo tồn gia đình, điều kiện bảo đảm tính bền vững của tài sản. Luật tục Êđê biểu đạt và cố định điều đó trong khái niệm truyền thống về sự thay thế: "Khi xà nhà gãy, người ta thay thế chúng, khi sàn nhà hỏng người ta sửa lại, khi một người chết người ta thay thế họ bằng một người khác. - Ðiều đó là để giữ mầm mống của căn nhà tranh - để bảo tồn mầm mống (của giống nòi) được truyền lại từ xa xưa - Phải giữ gìnnó như ta giữ đám rẫy cũ, như ta giữ cây củi cũ, mầm mống của tổ tiên, của các bác, các cô; phải giữ gìnnó quý giá như ta giữ giống lúa sớm và giống lúa muộn. -... Những sợ rằng gia đình sẽ tan rã, nhà sẽ suy sụp, hàng dậu sẽ tản lạc, - đường khâu chữa lại những gì đã gãy, củng cố cái gì đã yếu; - sợ rằng gia đình sẽ tản lạctrên các rẫy như những bụi lúa, sợ rằng nó sẽ bị triệt hạ, nòi giống sẽ khô cạnnhư nước trên ngọn núi cằn; sợ rằng sẽ không còn có con, có cháu, - vì điều đó Luật tục nói rằng phải nối lại mãi, phải thay thế mãi."(Biduê,97; một điều gần đó cụ thể hóa việc thay thế trong nội bộ cùng một thị tộc: số 98).
Và lại nữa: "... Sợi dây đã đứt, phải nối nó lại, cái gì sắp vỡ, phải củng cố nó lại... để cho căn lều không đổ, để cho ngôi nhà không sụp, để cho rào dậu không bị nhổ."(Biduê, 113)
Từ chuyện gia đình chuyển sang chuyện chính trị, việc thay thế các thủ lĩnh cũng như vậy: "Khi các xà ngang đã yếu... (ở đây: nhắc lại), khi người trưởng làng chết phải mời các cây chuối dại, để nối lại, để cho một người thay thế, để đặt một ai đó trên chiếc giường của thủ lĩnh, để giữ cái nắp chiếc gùi đựng đồ, để có một ai đó giữ các chiêng phẳng và các chiêng lồi, để có một ai đó chỉ huy dân làng, như người chết đã từng làm... - Những sợ rằng các người anh em chim bồ cắt, các thần làng, các anh em, các cháu chắt sẽ tản lạc trên các rẫy, rãi ra trong lúa, sợ rằng họ sẽ tản đi khắp nơi..."(Biduê, 104)
Cũng một tinh thần như thế dự kiến các điều kiện của việc nhận con nuôi: ".... vì điều đó bà nhận một đứa con gái nuôi, để giữ lấy lúa giống, để có một đứa con đứng đến gối hay đến thân mình, bởi vì bà sợ rằng gia đình sẽ biến mất, nòi giống mình sẽ tắt lịm". (Biduê, 107) - khuyên bảo các thể thức trong việc chia tay, kìm hãm việc ly hôn: "...đấy là lột vòng ra khỏi tay - đấy là lấy lược ra khỏi đầu". (Nri, 142).
Sự tiên liệu ấy được áp dụng một cách thích đáng vào vấn đề kép là tài sản và việc kế thừa của cải, không để cho chúng lọt ra khỏi gia đình; người Êđê và người Srê đều giao cho người đàn bà nhiệm vụ sở hữu: "Nếu người chồng có chiêng, ché, ngựa, trâu, mâm đồng, chậu thau, bát nhỏ, chén nhỏ, nếu ông ta có những của cải nào đó ông ta phải giao lại cho vợ để bà giữ... - Nếu ông đem của cải cho gia đình mình, ông sẽ có tội và sẽ có có chuyện giữa ông và vợ ông."(Biduê, 142) - "Của cải xưa, đồ trang sức củ, tài sản ngày trước, trang sức của ông bà, - phải được dùng chung. - Các chén nhỏ bằng sứ, các bát nhỏ bằng đồng, các đồ vật lặt vặt, không được đem bán để ăn; phải giữ gìn chúng mãi. - Các chiếc gùi Giarai, các chiếc giỏ,... người chị cả, cũng giống như mẹ, phải giữ gìn... (tiếp theo là kể ra một dây bất tận tất cả những gì có thể sở hữu và bắt buộc phải giữ gìn).
Cũng như vậy, người ta bo bo giữ cho đất luôn ở lại trong gia đình để tránh bị phân chia: "Nếu bà cô mất, cô cháu sẽ nối nghiệp,... - như vậy sẽ không ai dám chiếm lấy đất để nhận lấy về mình."(Biduê, 230)
Lúc kế thừa, khi một trong hai người vợ hoặc chồng chết, phần lớn tài sản nằm lại trong gia đình người vợ; chỉ một phần nhỏ thuộc về những người họ hàng giới nữ của người chồng, để tránh được tối đa việc chia nhỏ đất đai: "Tôi cứ phải nhắc mãi yêu sách của mình đến mệt lắm rồi, - mệt như là bị say nắng - tôi chọn các thứ đồ đạc trong những thứ người chết không còn sở hữu nữa. - con voi chết, nhổ ngà ra, - con tê giác chết, nhổ sừng ra; - ông ấy đã già, những người thân của ông tìm lấy phần thuộc về mình."(Nri, 53, Biduê, 182).
Sự phong phú về lời liên quan đến cuộc sống xã hội đó là một biểu hiện của tinh thần bảo thủ mà chúng ta đã gặp nhiều lần ở các dân tộc có óc truyền thống chặt chẽ này.


*


Tuy có một đầu óc hẹp hòi nhất định do tâm tính tuyệt đối bảo thủ, người Tây Nguyên tỏ ra có một sự nhạy cảm tâm lý rất tinh tế. Các công thức trong luật tục chứng tỏ một sự hiểu biết về con người mà ta không thể ngờ có ở những người "nguyên thủy". Như đoạn mô tả ngắn gọn sau đây về anh chàng, để có thể được vay, đã làm ra vẻ giàu hơn là thực: "Kẻ làm ra vẻ thêu thùa tỉ mỉ cái túi đựng muối, đặt hàng cho thẳng các hạt ngô, kẻ tìm cách lừa người giàu..."(Biduê, 37) - hoặc nhận xét sau đây: "Chuyện ấy chẳng mới mẻ gì, chẳng phải hôm nay mới có, rằng thanh giằng thì đặt trên đòn tay, rằng khắp nơi, từ Tây sang Ðông, từ muôn thuở nay, con trai và con gái thì đi tìm nhau. Nhưng về chuyện đó phải thận trọng, đừng có phóng đại quá mức."(nt. 133); và sau đó: "Nếu cô gái và chàng trai yêu nhau và thích muốn nhau, thì người ta sẽ không tròng dây vào cổ họ; những chiếc vòng sẽ được đặt trên chiếu, tự họ sẽ cầm lấy, tự do, chẳng ai đưa chúng cho họ, chẳng ai đặt chúng vào tay họ."(nt. 95). Về việc quyến rũ, một sự miễn tố khôn ngoan sẽ kết thúc mọi chuyện lôi thôi: "Nếu người đàn bà cọ mình vào người đàn ông chẳng muốn đi theo bà ta, nếu cầm lấy ngón tay anh ta mà kéo, nếu bà ta cầm lấy móng tay anh ta, nếu bà ta gọi và mời anh; thế thì chẳng có vụ việc gì cả, vì bà ấy giống như một trái cây chín tự mở ra, bà ham muốn người đàn ông và tìm cách ve vãn anh ta"(nt. 154)
Và làm sao có thể không nghĩ đến việc xét xử của Salomon trước quyết định này của luật tục: (Về những kẻ tìm thấy một chiếc ché, bị kết tội là ăn trộm)... "đối với một vụ như thế này, chẳng cần một phiên tòa dài, chẳng cần phải đi quá xa để cho voi và tê giác uống nước; sẽ đem bán chiếc ché, sẽ đem áo và váy (các thứ do bán ché mà có)ra mà chia, mỗi người sẽ có một phần và thế là vụ việc đã xong"(nt. 218)
Về điều nay, bộ Nri cũng chẳng thua kém, như câu sau đây về việc ăn cắp cái ống điếu: "ăn cắp ông điếu kiểu Tây thì chẳng nghiêm trọng gì; ăn cắp cái ống điều thường, thì phải đền ba trâu."(kẻ ăn cắp cái ống điếu đẹp chứng tỏ là mình có thẩm mỹ, anh ta bị cám dỗ; kẻ ăn cắp cái ống điếu tầm thường là một tên lười biếng, vì nó chỉ cần đi tìm một khúc tre bất kỳ nào đó trong rừng để làm một cái ống điếu). Hoặc như điều sau đây về cái bờ thửa giữa hai đám ruộng: "Không được cuốc vào bờ thửa để san bằng bờ ruộng của mình"(bởi vì làm như vậy hàng năm đối với bờ thửa, như người ta vẫn làm đối với những bờ thửa bên trong đám đất riêng của mình, ta sẽ dần dần nới rộng đám ruộng của mình ra, gây thiệt cho người bên cạnh).
Nhưng bộ Nri biểu hiện tinh thần của nó trong một hình thức có tính biểu tượng hơn trong đó nổi bật một sự tinh tế đáng chú ý về khiếu quan sát: "Con dao làm ướt da ở bẹn thay vì chui vào bao (như một người đàn bà lười biếng); chẻ củi lúc trời tối (bà ta làm như thế) là làm chuyện ngược đời; để lấy nước, người ta đặt nằm ống tre lớn (kẻ lười biếng nằm dài thay vì làm việc là như thế đấy) (Nri, 21). Những nhận xét chính xác, được cô đọng trong những công thức biểu tượng, vượt qua tầm mức một lời khuyên bảo đơn giản: "Khi leo dốc, đừng nói rằng anh khát (không tâm lý); nếu anh gặp người Mạ, đừng có tìm chuyện lôi thôi cũ (họ sẵn sàng rút dao ra ngay); khi ở với vợ, đừng có nói chuyện các cô gái."(Nri, 29).
Vài ba từ chỉ ra một tình cảm, việc lặp lại các nét chấm phá nhẹ nhàng này đem lại những thông tin quý giá về các phong tục và tập quán: Kẻ nào đi lấy củi sẽ không nổi giận khi chiếc gùi của mình bị thủng (anh ta còn có thể vác củi trên vai), nhưng sẽ nổi giận khi chiếc cán rìu bị gãy (khi đó không còn có thể làm việc được nữa) (Nri, 52). Sự quan sát các loài thú và đồ vật cũng thật chính xác: "Lũ kiến mang các bó lúa của chúng đi (phải bắt chước cách làm việc của chúng); bọn chim sẻ bay xập xòe khắp nơi (để đem cái ăn về tổ); Con Lợn rừng trắng làm nên hòn núi (ám chỉ con lợn rừng truyền thuyết đã làm nên ngọn núi Liang Biang bằng cái mõm của nó - và là biểu tượng của tổ tiên đã tạo nên những ruộng lúa mà chúng ta phải làm hàng ngàn năm nay); kẻ nào để lăn một chiếc ché tròn sẽ không thể thấy nó dừng lại; nồi dùng nhiều thì mau vỡ; nhưng kẻ lười biếng không muốn lấy con dao và chiếc xà gạc ra."(Nri,55; "Về những kẻ bất tài phung phí của cải".)
Sự nhạy bén trong quan sát thường đưa đến nét hóm hỉnh; giữa một dây các ẩn dụ truyền thống hoa mỹ, có thể tìm thấy những lời đùa cợt hay những nét hóm hỉnh: "... Kẻ đi lang thang mắc cằm vào mọi chỗ, anh ta hành động giống như người bị kim châm vào mông..."(Biduê, 68) - "Chẳng ai bắt con ngựa phải đeo dây dắt... chẳng ai buộc đàn ông phải trao đổi chiếc vòng với người đàn bà."(nt. 132) (với kẻ đốt nhà): "Chỉ một mình mày, mày đã làm cho lửa thiêu sạch mọi thứ, cũng giống như chỉ một cái kẹp mà ngốn hết bao nhiêu sắt người ta đưa cho nó."(Nri, 17) - và viên ngọc này của Biduê: "... kẻ xô xát với vợ, nếu hắn ta đánh vừa phải, có chừng mực, thì chẳng có chuyện gì cả."(137)
Cái đó được nói theo phong cách của Truyền thống và không hề phá vỡ nhịp điệu của phong cách ấy; nó nằm rất đúng chỗ của nó trong các cảnh xét xử, vẫn trung thành với truyền thống tổ tiên lại vừa hiện diện sinh động.


*


Luật tục là một biểu hiện của Ðạo đức; nó không đủ để trình bày hết lĩnh vực đó, nhưng nhìn chung nó thể hiện sắc thái đạo đức riêng của từng tộc người. Luật tục Tây Nguyên, dưới hình thức những câu châm ngôn, những tục ngữ, cho ta một ý niệm khá chuẩn xác về ý tưởng đạo đức ở xứ sở này. Qua cái nhìn đầu tiên, ta nhận ra ở đây việc áp dụng những nguyên lý đạo đức mục đích chủ nghĩa, truyền thống chủ nghĩa, đặc biệt lên án tất cả những gì chống lại một quan niệm lành mạnh và tự nhiên về gia đình, một hình thức hạn chế và có tổ chức cả xã hội. Bộ Nri, đặc biệt trong vấn đề hôn nhân, gần với quy luật tự nhiên hơn, đạo đức hơn bộ Biduê [4] . Hơn nữa, có nhiều tội không tìm thấy trong Nri, vì không có trường hợp đó, nhưng lại lại có trong Biduê, có cả lời ghi chú về cách xét xử. Về mặt này, người Mạ và người Raglai gần người Êđê hơn.
Truyền thống pháp chế lên án những kẻ thù của gia đình: ly hôn, ngoại tình, loạn luân; chống lại các tai họa xã hội, từ những kẻ kiêu ngạo không chịu nghe lời khuyên và không biết đến uy quyền của các Già làng, cho đến những kẻ hư hỏng, nổi loạn, cướp bóc, đốt nhà. Nó giành một phần lớn cho nguyên tắc về các trách nhiệm, vượt qua phạm vi pháp chế để chạm đến lĩnh vực đạo đức. Nhiều điều xác định quan hệ trách nhiệm: bố mẹ phải chịu trách nhiêm về tội của con cái ("Nếu con cái làm... thì bố mẹ phải chiu trách nhiệm" Biduê, 143) và ngược lại ("Nếu người chồng chui vào trong lều người ta để ăn trộm, thì tội của anh ta đổ lên vợ và các con anh ta; nếu anh ta nói những lời chửi rủa, tội của anh ta sẽ đổ lên các cháu trai và cháu gái của anh ta, chúng phải đền tội..."nt,150), những người liên kết chịu trách nhiệm về nhau, người thuê nhân công chịu trách về người làm thuê. Ngữ cảnh cho thấy trách nhiệm này vượt qua phạm vi pháp chế và thậm chí cả phạm vi đạo đức, mà chuyển sang lĩnh vực tôn giáo; chúng ta sẽ trở lại vấn đề này.
Truyền thống ca ngợi một hình thức tương trợ rất gần với lòng bác ái, đôi khi vụ lợi vì người ta chờ đợi được đáp lại, nhưng tỏ ra khá trong sáng:
"Gánh củi nặng, phải giúp người ta mang, cũng như gùi nước nặng; phải giúp hoàn tất cái nhà đang dựng;... mọi người phải cùng nghe một tai, nói như chỉ có một miệng, mong muốn như cùng một tấm lòng. Tất cả, người ở và cư dân, cháu trai và cháu gái, tất cả những người ở đây và ở kia phải luôn luôn giúp nhau."(Biduê, 87)
"Người thủ lĩnh cõng dân như người ta cõng em mình, ông tắm cho dân như người ta tắm cho đứa bé, ông che chở cho họ để mọi sự đều tốt đẹp và dễ chịu..."(nt. 32)
"Kẻ nào không lo cho người ốm, không chăm nom họ, có cơm và có rượu mà chẳng chịu chăm lo cho họ; kẻ nào không chăm nom đầy đủ... quên cúng tế (để cho người bệnh được lành) và khiến cho người bệnh phải nằm lâu trên chiếu, dưới chăn, để sinh ốm yếu và đến nỗi không còn sức mà nói nữa, không nấu cơm cho người ốm, không buộc người ốm phải ăn... kẻ đó có tội"(nt. 85)
Ta không thấy có những điều tương đương trong bộ Nri; các cụ già bảo rằng đã quá đương nhiên và được mọi người tôn trọng cho nên chẳng cần phải cần phải nhắc nhở, không cần có những điều khoản đó.
Luật tục khuyên răn bằng bổn phận, nhân danh Phong tục, hơn là trừng phạt. Khi một bản án được tuyên bố, hình phạt chủ yếu không phải là con lợn hay ché rượu, mà là việc các Già làng coi là anh có tội, phải chuốc lấy sự chê bai của cộng đồng. Cũng như trong mọi việc, khi người Tây Nguyên muốn tìm lý do cho một hành vi của mình - về kỹ thật hay ứng xử - họ viện đến cái Phong tục ấy, cái Phong tục vẫn làm nên tất cả sức mạnh cho luật tục.


*


Ði đến tận cùng vấn đề, truy bật cho ra cái điều đã làm nên bản chất và tính độc đáo của tinh thần pháp chế ấy, ta sẽ nhận ra cái ý tưởng cơ bản giải thích mọi hiện tượng ở Tây Nguyên, nền tảng của cái công trình được gìn giữ từ bao nhiêu thế hệ, là một quan niệm mang tính mục đích chủ nghĩa và tôn giáo về thế giới, coi tất cả những gì đã có tự ngàn xưa đều là tốt, bởi vì đó là do các Thần đặt ra, và sẽ mãi mãi như vậy bởi vì sự tồn tại của dân tộc Tây Nguyên không có mục đích gì khác lưu truyền nó mãi.
Pháp chế đó là một đạo đức bởi vì nó là một minh triết, một "thị hiếu" của thế giới truyền thống chủ nghĩa và tôn giáo, vì nó được xây dựng trên chính nền tảng của đạo đức: tiêu chuẩn đạo đức không phải là trong tương quan với một cái tối ưu. Ðó là cái tốt tuyệt đối do một Quyền lực ấn định, là một lý tưởng ta luôn có trước mặt mình, mà ta dần dần vươn tới và xa lánh nó thì sẽ là một sự thụt lùi. Tiêu chuẩn của luật tục và đạo đức chính là Phong tục. Ðiều tốt là điều đã luôn được làm từ muôn thuở, từ buổi khởi nguyên của thế giới, là điều các Thần đã dạy con người, là điều tổ tiên đã truyền lại cho các thế hệ hôm nay. Nếu người Tây Nguyên có thể có ý tưởng về sự tiến bộ; đối với họ canh tân là có tội. Làm cho họ chấp nhận căn cứ của một tiến bộ kỹ thuật làm xáo trộn các phạm trù tinh thần đã xếp thành nếp của họ do giáo dục và sự lại giống, đã là một điều khó; khiến họ chấp nhận ý tưởng về một sự tiến bộ về đạo đức càng khó hơn. Và đã sống như vậy nhiều thế kỷ, ý thức bị mờ tối đi, chỉ biết nhìn về phía sau mình. Ðiều đó không trái ngược với sự "hiền minh" mà chúng ta vừa nói đến, với điều kiện là không nên hiểu từ đó như người ta vẫn hiểu ở phương Tây chẳng hạn, mà như một thói quen xem xét ý vị, giá trị của mọi sự theo một chuẩn mực truyền thống. Ta nghe những người châu Âu nói về những người Tây Nguyên mà họ gặp: "Ðó là những nhà minh triết". Theo một quan điểm nào đó, quả thật đúng như vậy; nhất là nếu họ không phải là những người duy nhất như vậy. Nhưng không nên tự dối rằng một dân tộc có thể sống chỉ bằng quá khứ của mình; đứng vững tức là tiến lên; một dân tộc như vậy phải hoặc tiến lên hoặc biến mất.
Cái tốt, về mặt pháp lý và đạo đức, là cái vốn đã tốt từ buổi các Yang tổ chức ra thế giới. Từ đó mà có sự thâm nhập lẫn nhau giữa các lĩnh vực: các hiện tượng pháp chế, không hề biến tính đi, thông thường, về một mặt nào đó, sẽ là các hiện tượng tôn giáo. Luật tục, khi có dịp, nhắc rằng phải cúng các thần bị xúc phạm, chỉ rõ cần phải cúng vật gì, trong những hoàn cảnh như thế nào; nó cũng nhắc nhớ những điều cấm kỵ không được vi phạm (nhà bị kiêng, mộ bị kiêng...)
Trong khi nghiên cứu các dược phẩm, chúng ta đã đi đến chỗ nhận ra ý tưởng cơ bản cho rằng căn bệnh của cơ thể chính là một sự rối loạn, thông thường là do một lỗi về đạo đức gây ra (cần hiểu là đã không tôn trọng một phong tục, vi phạm một điều cấm kỵ), sự nhiễu loạn trong tự nhiên, sự xa rời phong tục ấy sẽ được sửa chữa, chữa lành (boe) bằng món thuốc tự nhiên gắn liền một cách truyền thống với tình trạng bệnh lý đó; như vậy tức là đã trở lại với Phong tục. Hiện tượng như vậy cũng diễn ra trong lĩnh vực luật tục. Tội phạm là sự rối loạn do không tôn trọng Phong tục, sự nhiễu loạn trong xã hội đó sẽ được sửa chữa bằng món phạt gắn liền theo truyền thống với tình trạng phạm tội đó; như vậy ta sẽ trở lại trong trật tự thường lệ của tổ tiên. Rất đáng chú ý là từ ngữ dùng để chỉ việc sửa chữa về mặt pháp luật đó cũng đúng là từ ngữ ta đã thấy trên kia: boe, có nghĩa đen là chữa lành. Ðối với một người bản địa, hai hiện tượng đó chỉ là một. "Sự vụ đã được chữa lành".
Trong điều tiếp sau, về tôn giáo, ta sẽ thấy lại đúng tiến trình ấy được giải thích bằng một quan niệm duy nhất của người Tây Nguyên: lỗi lầm về đạo đức, sự vi phạm một điều cấm kỵ, việc coi thường một phong tục là một sự mất trật tự trong cái thế giới mà các thần đã tạo ra; một lễ cúng, xứng với tội lỗi, dâng các Thần, sẽ làm cho mọi sự trở lại trong trật tự và chữa lành sự vụ có tính tôn giáo. Ở đây nữa, không nên ngạc nhiên về từ ngữ chữa lành, vì lễ cúng sẽ tránh cho người mắc tội khỏi bị bệnh do các Yang phạt những kẻ đã quên các ngài.
Y học cổ truyền đối với cơ thể con người cũng giống như Luật tục đối với cơ thể xã hội, như tôn giáo của tổ tiên đối với vũ trụ toàn vẹn những con người và Thần linh: đó là một nhân tố trật tự, là phương tiện đã được tiên liệu của Thượng Ðế sáng thế để cho thế giới được tạo ra trường tồn theo đúng ý tưởng mà các Thần đã định từ mãi mãi.
Sự hội tụ về cung cách ứng xử trong các lĩnh vực khác nhau, từ y học, đến pháp luật và tôn giáo đó, quan niệm về thế giới, đơn nhất và bao gộp tất cả, chìa khóa của mọi vấn đề đó, về mặt tâm lý có thể cắt nghĩa bằng chủ nghĩa truyền thống toàn vẹn: Phong tục là đơn nhất và đã tiên liệu mọi sự, không thể đi ra ngoài đó. Các hiện tượng kỹ thuật, pháp chế, tôn giáo, chỉ là những hợp trội của chủ nghĩa truyền thống bản chất đó, nó định hình tư duy đơn giản nhất cũng như hành vi sơ đẳng nhất, và hiển lộ trong đó.
________________________________________


[1] Họ cũng giải thích: tom is, coung tam tip, "thân cây thì khác, nhưng các ngọn gặp nhau", nghĩa là ý tưởng dẫn đến sự nối kết các hình ảnh thay đổi theo từng điều, nhưng sau đó các hình ảnh ấy lại trỏ lại, lại giao chéo nhau.
[2] Ăn trộm thóc của người hàng xóm nặng hơn ăn trộm thóc của vợ; tội này, được coi là một trong những tội nặng nhất, bị coi như tội giết người: "Anh lấy trộm thóc của tôi, tôi sẽ chết đói; vậy thì giết chết tôi ngay đi còn hơn!"
[3] Và đôi khi tùy theo cả gia sản của người cho vay: phạt một con lợn nếu người bị hại nghèo, nhưng phạt một con trâu nếu người bị hại giàu.
[4] Xem chương về hôn nhân giữa một người đàn ông trưởng thành với một người đàn bà quá trẻ: "Nếu người đàn ông phản bôi vợ mình...": ở người Êđê, chẳng có chuyện gì cả; ở người Srê: tội ngoại tình.

read more...