Hiển thị các bài đăng có nhãn ĐIÊU KHẮC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ĐIÊU KHẮC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Tượng Phật giáo Champa



Tượng Phật giáo Champa


KIÊM ĐẠT








Những tượng Phật


Dù tôn giáo chính của Chăm Pa là Siva Giáo, tuy nhiên, trong một thời điểm nhất định trong lịch sử đất nước nầy, dấu ấn Phật Giáo vẫn rất quan trọng. Biểu trưng rõ nét là các tượng Phật. Khi nói đến điêu khắc Chăm Pa thời Phật Giáo hưng thịnh tại nước nầy không thể không nói đến nghệ thuật Đồng Dương. Không phải là ngẫu nhiên mà danh xưng “Phật Viện Đồng Dương” được dùng để đặt tên cho cả một phong cách nghệ thuật Chăm Pa ở một giai đoạn nhất định. Các hiện vật điêu khắc và trang trí Đồng Dương thật phong phú đa dạng: tượng Phật, tượng Bồ Tát, tượng Môn thần (Dvarapala), tường người lễ bái. Ngoài ra còn những phù điêu tuyệt đẹp trang trí kiểu kỷ hà học. Chất liệu bằng đá, bằng đồng, bằng đất nung bền chặt. Trong nền điêu khắc Chăm Pa, các nghệ phẩm thuộc phong cách Đồng Dương có những sắc thái đặc biệt: cung mày nối liền nhau nối gờ lên và lượn sóng, môi dày có viền, mũi rộng và tẹt... Đẹp nhất, độc đáo nhất trong phong cách Đồng Dương là các môn thần. Các vị thần nầy được tạc trong nhiều tư thế: dứng trên khuôn mặt động vật, hai chân dang ra bề thế, đầu quay về hướng động tác. Sự quan tâm của nhà điêu khắc tập trung nhiều ở khuôn mặt, thể hiện đúng nét của từng nhân vật. Đó là những điểm tiêu biểu nhất.





Tượng Phật Đồng Dương: Vào tháng Tư năm 1911, nhà khảo cổ học Henri Parmentier đã tìm được tại khu vực Đồng Dương, xã Bình Định, huyện Thăng Bình (Quảng Nam) một pho tượng đồng tuyệt mỹ. Đây là pho tượng bằng loại đồng thau cũ khá lớn (chiều cao đến 1,08m), không có phần bệ đỡ phía dưới như những tượng Phật khác. Tượng thể hiện đức Phật đứng, hai tay hướng cân xứng nhau, ra phiá trước. Phật mặc một tấm áo tu hành (Uttarasanga) dài để hở một vai (phải), lại khoác thêm bên ngoài một tấm khoác (Samghati) Tóc Phật là những vòng xoắn ốc đều đặn. Trên trán có một Urna lớn. Tuy cùng làm một động tác như tay phải, nhưng bàn tay trái cầm một phần vải kéo ra đằng trước. (trích theo Catalogue du Musée Cam de Tourane – BEFEO – XIX - 1919).


Theo nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh thì: Tượng Phật Đồng Dương nói trên có gắn liền với truyền thống Amaravati của Ấn Độ, cho đến nỗi có thể nào tìm ra được một dấu tích gì thuộc truyến thống bản địa (Lâm Ấp cũ).


Căn cứ theo những vết tích trên đây, không phải ngẫu nhiên mà vùng Phật viện Đồng Dương nằm trong vùng được gọi là Amaravati, kinh đô của Chăm Pa trong khoảng 875 – 1000. Theo Carl Heffley (The Arts of Champa – Sai gon) thì đúng ra, khi triệt thoái về Nam vào cuối thế kỷ thứ IX (sau Công nguyên) kinh đô phải là Trà Kiệu mới đúng. Dựa trên tiêu chí về phong cách tượng Phật Đồng Dương, các nhà nghiên cứu cho rằng: Niên đại của tượng Phật kể trên là từ khoảng giữa thế kỷ thứ IV cho đến đầu thế kỷ thứ VI. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là giả định.


Tượng Phật Quảng Khê: Quảng Khê thuộc tỉnh Quảng Trị, là đất Cham Pa trước thế kỷ thứ IX. Ở đây các nhà khảo cổ thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ (E.F.E.O) đã khai quật và phát hiện ra được một nhóm tượng Phật khoác áo che kín cả hai vai, khác hẳn với tượng Đồng Dương kể trên. Tượng Phật Quảng Khê có lồng ngực hẹp, hai cánh tay trần, y phục xiết chặt vào cơ thể. Nhiều phần của pho tượng đã không còn. Căn cứ vào những chi tiết còn lại, những điều nầy nêu ra đặc trưng có khả năng cho thấy được rằng: Tượng Phật Quảng Khê gắn với các loại tưọng đồng thau của nghệ thuật Môn – Dvaravati hoà với phong cách Gupta của Ấn. Thể loại tượng Phật nầy còn tìm thấy ở vùng Sumatra (Indonesia) và Theno (Malaysia). Đặc điểm của pho tượng Quảng Khê là có vầng hào quang được gắn biểu trưng đằng sau vai. Cũng chưa hiểu rõ là vầng hào quang nầy được gắn vào thời sau hay cùng thời? Dựa vào những nét tiêu biểu kể trên chúng ta có thể đoán định rằng: Niên đại tượng Quảng Khê tương đương với tượng Pongtuk (Thái Lan) và Sumatra, tức là thuộc vào giai đoạn thế kỷ IV đến thế kỷ VI.


Tượng Phật Bình Định: Có thể tìm hiểu thêm ở Bảo tàng Điêu khắc Chăm Pa ở Đà Nẵng. Tại khu trình bày, góc Tây Nam thuộc hành lang Bình Định, có thấy trưng bày tượng Phật tìm thấy ở Bình Định. Tượng được định thời gian vào thế kỷ XII, chiều cao 95cm, chiều rộng 70cm. Tượng Phật nầy được thể hiện bằng kiểu ngồi bán già trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nhiều nước khác ở Đông Nam Á. Pho tượng đã không còn phần đầu, kể từ khi trưng bày. Phật ngồi xếp bàn tròn, tay trái đặt ngửa ở chỗ gặp nhau của hai bàn chân, tay phải chắp lên ngực, các ngón tay chỉa thẳng lên, được gọi là “thế Anjali Mudra”. Tư thế nầy được biểu hiện cho “cát tường”.


Y phục trên pho tượng Bình Định nầy là loại áo cà sa quấn chung quanh người, đầu vải còn lại thì xếp lại vắt qua vai trái, vai phải để trần. Ở đầu vải nầy xếp lại nhiều nếp dẹp buông xuống ở vai. So sánh với những tượng Phật khác thì loại y phục nầy cũng là một khổ vải dài và rộng rất đơn giản; chiều dài phủ xuống đến tận chân; chiều ngang xếp lại nhiều nếp xếp phủ cho đến cổ tay như được thấy ngày nay. Nhiều phần đã bị mất từ khi khai quật, ngón tay cái và một phần của bàn tay trái đã bị vỡ mất. Đức Phật ngồi trên toà sen những cánh sen được cách điệu thành những ngọn lửa mềm mại toả ra đều đặn nhau. Kích thước của tượng Phật nầy gần bằng với kích thước của người thật; thân hình thì mập mạp và cân đối trong mọi thành phần cơ thể.


Nhìn chung lại, sự hiện diện của các tượng Phật của Chăm Pa tuy ở những địa điểm khác nhau chứng tỏ rằng: ngay từ những thế kỷ đầu Công nguyên, Phật Giáo đã đóng một vai trò đáng kể tại Vương quốc Chăm Pa. Điều nầy có thể khẳng định về câu chuyện viên tướng viễn chinh khi đánh vào Lâm Ấp đã tịch thu được 1.350 tác phẩm Phật Giáo, được viết bằng thứ chữ “Côn Lôn” (được hiểu là kiểu chữ Nam Ấn Độ). Nếu quả thật, thì cũng nên đánh giá đúng vị trí Phật Giáo xứ nầy, tuy tư liệu đã không mấy thể hiện rõ.


Ngay sau khi phát hiện, tượng đồng Đồng Dương đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà khảo cổ học thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ (E.F.E.O) và Hội Nghiên cứu Đông Dương (S.E.I), như R. Rougier, A. Foucher, V. Goloubew, P. Dupont, H. Parmentier. Theo nhận định chung của các tác giả nầy thì: Pho tượng Đồng Dương là một trong những pho tượng Phật cổ nhất và thuộc vào loại đẹp nhất ở khắp vùng Đông Nam Á cùng thời đó. Pho tượng cao 1,08 mét, (không có bệ), thể hiện đức Phật đang đứng với hai tay hướng cân xứng ra phía trước. Đức Phật khoác trên mình một chiếc áo cà sa dài để hở vai phải và có một u nhỏ (Uma) ở giữa trán.


Tượng Đồng Dương cũng như các tượng Phật cùng kiểu khác đã được tìm thấy ở Đông Nam Á như tượng Phật ở Kô Rạt (Thái Lan), tượng Phật Sikendung (Selebes- Indonesia), tượng Phật Jember (Java – Indonesia), tượng Phật Angkor Borei (Kampuchia)... tất cả những pho tượng nầy đều mang phong cách tượng Phật Amaravati của Ấn Độ. Trong khi đi sâu vào các chi tiết khác, một số nhà nghiên cứu kể trên thì lại nhấn mạnh: Tượng Phật Đồng Dương lại giống các tượng Phật của Amaradhapura (Sri Lanka). Căn cứ vào đó, họ giả định rằng: Tượng Phật ở Đồng Dương có niên đại vào khoảng thế kỷ III – IV và dã được nhập trực tiếp từ Ấn Độ hay Sri Lanka. Như thế, đạo Phật đã đến đất Chăm Pa khá sớm, so với những nơi khác trong vùng.


Một nhà nghiên cứu nổi tiếng người Pháp, giáo sư J. Boisselier nhấn mạnh: Tuy không khẳng định tượng Phật ở Đồng Dương là tác phẩm du nhập, vẫn phải công nhận là tượng nầy cũng là tác phẩm có quan hệ sâu sắc với truyền thống truyền thống Ấn Độ, đến nổi không thể nào phát hiện ra vết tích của một truyền thống bản địa...” Như thế, dù là tác phẩm du nhập hai tại bản địa, pho tượng Phật Đồng Dương là một bằng chứng về sự ảnh hưởng của Phật Giáo Amaravati của Ấn Độ đối với tôn giáo Chăm Pa nói chuing và vùng Đồng Dương nói riêng. Cũng không phải là chuyện ngẫu nhiên mà vùng phía bắc Chăm Pa (tức là Quảng Nam – Đà Nẵng) vào thời đó có tên gọi là Amaravati .





Những tượng Bồ Tát


Cũng tại Bảo tàng Điêu khắc Chăm – Đà Nẵng, còn thấy những tượng Bồ Tát. Tại đây, có thể nhận diên 3 loại hình Bồ Tát: Bồ tát Avatokitesvara, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và Bồ Tát Tara.


Bồ tát Avalokitesvara (Quán Thế Âm): Pho tượng nầy được khai quật tại Cồn Dàng, huyện Mỹ Đức (Quảng Nam) điêu khắc trong khoảng thế kỷ IX – X. Bồ Tát Quán Thế Âm ở đây đứng thẳng trên đế vuông, hai cánh tay từ vai xuống đến khuỷu tay buông thẩng theo thân mình, nhưng từ khuỷu tay đến bàn tay thì đưa ra phía trước, đặt tựa trên hai chiếc trụ mảnh mai, từ dưới chân lên. Những phần pho tượng không còn nguyên vẹn. Chẳng hạn như chiếc trụ và hai cánh tay đã gãy mất, chỉ còn thấy được dấu vết hai chiếc trụ từ dưới chiếc đế. Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm có thân hình mảnh mai, thon thả, nhưng hai cánh tay có vẻ lớn hơn, nếu so với thân mình mảnh dẻ của tượng. Bồ Tát mặc chiếc “sarong” dài, từ thắt lưng đến mắt cá. Sarong được trang trí bằng những hoa văn, bố cục thành những sọc chéo uyển chuyển, đa dạng: hình hoa thị, hình tam giác răng cưa, hình sóng nước, hình dải vòng tròn... Pho tượng đã không còn đầu, nhưng có thể căn cứ theo miêu tả của nhà khảo cổ Henri Parmentier và những tấm ảnh chụp từ khi trưng bày đầu tiên (năm 1918), thì “Tác phẩm nầy là một kiệt tác trong nghệ thuật điêu khắc Chăm Pa”. Theo bài mô tả của Henri Parmentier thì: “Tượng có nét mặt thanh tú, mắt dài, đồng tử khá rõ nét”.


Bồ tát Văn Thù Sư Lợi: Pho tượng nầy tìm thấy ở Đông Dương (Quảng Nam) được tạo dáng vào thế kỷ thứ IX. Chiều cao 158cm, chiều rộng 106cm. Đây là một pho tượng đã gây nhiều nhận định khác nhau, có khi tranh cãi nhau cho những nhà nghiên cứu khi giải thích các tác phẩm điêu khắc Chăm Pa (theo Huỳnh Thị Được – Điêu khắc Chăm Pa và Thần thoại Ấn Độ- 2005). Chính bức tượng nầy đã khiến cho nhà khảo cổ Henri Parmentier cho là “Tượng Phật ngồi theo kiểu Tây Phương”.


Trong khi đó, nhân định của J. Boisselier (La Statuaire du Cham Pa) thì :”Bố cục của pho tượng đặt ra nhiều vấn đề khác hẳn nhau. Nếu bố trí đôi chân song song, có thể xem là phong cách Trung Quốc được tìm thấy ở vùng Longmen và Yunkang. Nhưng hai bàn tay lại đặt trên hai đầu gối (của một vị Bồ tát) thì khó hiểu nổi...”. Nhưng theo Jan Knappert thì: “Các Bồ tát thường ngồi trong tư thế thiền định (dhyana). Còn Bồ tát Văn Thù Sư Lợi thường được miêu tả như thế ngồi của các vi vua trên ngai vàng” (India Mythology –1995)


Bồ tát Tara: Tượng nầy cũng tìm thấy ở Đồng Dương (Quảng Nam), được điêu khắc vào thế kỷ IX. Chiều cao là 114cm. Tara thường thấy nhiều trong tín ngưỡng Mật Tông Tây Tạng. Bồ tát được thể hiện đứng thẳng, hai tay đưa ra phiá trước, tay trái cầm tù và và ốc, tay phải cầm đài sen. Tượng mình trần, bên dưới mặc “sarong” hai lớp, dài đến mắt cá chân. Lớp trong của sarong đơn giản, bó sát thân mình, buông dài đến mắt cá chân. Ngoại hình của Bồ Tát Tara cũng được chú ý nhiều. Đó là hình ảnh của một phụ nữ có thân hình cân đối Tượng mình trần, cổ cao, có ba ngấn, đôi vai rộng, chiếc eo thon nhỏ. Khuôn mặt và đồ trang sức nhiều công tô điểm. Toàn thể hội tụ phong cách Đồng Dương, thế kỷ thứ IX.


Tượng La Hán


Trong đồ tượng học Phật Giáo, La Hán biểu trưng cho các vị tu khổ hạnh đã đạt tới vị trí cao nhất trong cảnh giới chứng quả, có thể tự chế mình, được miễn tái sinh, đầu thai nữa. Tượng La Hán tìm thấy ở Đông Dương, điêu khăc thế kỷ IX. Chiều cao 88cm, chiều rộng 55cm. Tượng ngồi xếp bàn, hai tay đặt xuôi theo hai đầu gối. Mình mặc áo cà sa xếp nếp, chiều dài phủ kín đến chân. Bệ ngồi của pho tượng có nhiều kiểu trang trí. Mặt trước bệ, ở chính giữa là một pano hình chữ nhật đứng; trong pano có khắc họa mặt sư tử.


Phật viện Đồng Dương chỉ xuất hiện trong vòng 125 năm (875 – 1000) rồi chìm trong quên lãng. Khi các tộc người Chăm Pa lùi dần về phương Nam, thế nước yếu dần. Văn hoá cũng đi vào thoái trào. Những công trình khai quật chỉ được xúc tiến trong vòng 12 năm đầu thế kỷ XX, rồi đình chỉ hẳn (1910). Những cuộc chiến sau đó đã phá hũy toàn vẹn khu vực Đồng Dương. Đến nay, vẫn chưa có thêm công trình khai quật khảo cổ học nào. Thành thử thật khó đánh giá đúng mức những công trình điêu khắc Phật Giáo ở đây.


http://www.buddhismtoday.com/viet/vh/tuongPGChamPa.htm
read more...

Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

10 bảo vật quốc gia



10 bảo vật quốc gia




Hồng Phúc
www.tuoitre.com.vn

Ngoài những giá trị văn hóa – lịch sử – khoa học tiêu biểu, đáng trân trọng là 8/10 bảo vật đều do người dân Quảng Trị tự nguyện tặng cơ quan chuyên môn.
Trong mười bảo vật này có năm bảo vật mang phong cách kiến trúc Chăm, còn lại mang phong cách kiến trúc Việt. Trong đó có những bảo vật rất tiêu biểu như tượng tròn Uma Dương Lệ. Khi nghiên cứu pho tượng này, giáo sư Lương Ninh – Viện Khảo cổ học Việt Nam – nhận xét: “Đây có thể là pho tượng tròn vào loại đẹp nhất của nghệ thuật Chăm”. Thạc sĩ Lê Đức Thọ – phó giám đốc Bảo tàng Quảng Trị – cho rằng: “Tượng Nguyễn Ư Dĩ là độc nhất vô nhị tại Việt Nam, những giá trị không đâu có được”.
Ông Lê Đức Thọ cho biết 10 bảo vật quốc gia có niên đại sớm nhất 2.500 năm, muộn nhất gần 300 năm.
Phù điêu lá nhỉ Trà Liên 1


Có niên đại từ nửa cuối thế kỷ 9, cao 1,21m, dày 20cm, đường kính đáy 1,54m, làm bằng đá sa phiến thạch. Nội dung phù điêu chạm hình thần mặt trời Surya và hai trợ thủ. Thần Surya đứng giữa, đầu đội một Kirita-mukuta hai tầng gần giống mũ của thần Visnu, toàn thân khoác áo dài kẻ sọc dày. Khuôn mặt nghiêm nghị, lông mày rậm, mũi cao, miệng rộng, hai tai đeo đồ trang sức to nặng, hai tay cầm búp sen giơ lên cao.
Hai trợ thủ ngồi hai bên phía dưới chân của thần, mỗi vị cầm một cái trượng trên tay, khuôn mặt tươi tắn, miệng rộng, môi dày. Bên dưới phù điêu có hình bảy đầu ngựa tượng trưng cho bảy ngày.
Phù điêu lá nhỉ Trà Liên 2
Có niên đại từ nửa cuối thế kỷ 10, cao 1,2m, rộng 2,1m. Nội dung của bức phù điêu thể hiện ở ba mảng. Hai mảng chính thể hiện bởi hai tượng thần Siva và Uma được chạm nổi trong hai khung hình bán nguyệt, một mảng phụ thể hiện hình tượng cây vũ trụ chạm chìm nằm ở phía trên đầu giữa hai mảng chính. Thần Siva ngồi trên một chiếc bệ, dáng thư thái, miệng hé cười, hai cánh mũi nở.
Hình tượng Uma ngồi trên bệ cao, nửa thân trên để trần lộ ra hai vú căng tròn, hai cánh tay thon thả, ở cánh tay và cổ tay có đeo vòng trang sức. Bức phù điêu hình bán nguyệt làm bằng đá sa thạch.
Bò thần Nan Din Kim Đâu


Có niên đại từ thế kỷ 10, cao 0,6×0,35m được đặt trên bệ cao 0,46×0,29m, bằng đá sa thạch. Xung quanh bệ là dải hoa văn hình cánh sen. Bò Nan Din là vật cưỡi của thần Siva và nữ thần Paravati.
Bò thần Nan Din Quảng Điền


Cao 0,52×0,34m, có niên đại khoảng cuối thế kỷ 9 đầu thế kỷ 10.
Cụm vò bán sứ Đường làng Dương Lệ


5/7 vò còn ngyên vẹn. Vò lớn nhất cao 0,57m, đường kính miệng vò 0,21m, vò nhỏ nhất cao 0,11m. Cả mặt trong và ngoài vò đều được phủ men màu vàng nhạt. Xương gốm tinh có màu trắng sữa. Cụm vò được chế tác theo phương pháp bàn xoay, có niên đại từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 10.
Trống đồng An Khê


Có niên đại cách nay 2.500 năm. Trống có tang phình, thân eo, đế thẳng, xung quanh có bốn quai, trống cao 0,26m, đường kính mặt trống 0,30m. Trên mặt trống có hình ngôi sao tám cánh và có sáu vành hoa văn được trang trí các họa tiết.
Bản khoán ước làng Phú Kinh


Bản khoán ước hình chữ nhật, dài hơn 2m, rộng 0,6m được làm bằng gỗ lim, có niên đại năm 1774. Toàn bộ khoán ước có khắc gần 5.000 chữ Hán ở mặt trước. Nội dung bản khoán ước bao gồm những qui định trong đời sống xã hội như giải quyết vấn đề phân chia ruộng đất, giáo dục, khuyến học, giữ gìn phong thủy, tang ma, cưới xin của làng.
Tượng UMa Dương Lệ


Pho tượng tròn, cao 0,65m, được làm bằng đá sa thạch, tạc nữ thần đang tọa trên bệ đài. Chân nữ thần đặt chéo lên nhau, hai tay đặt ở phần đùi trong tư thế thiền định. Đây là biểu tượng của thần Uma, vợ hay chính là hóa thân của nữ thần Siva. Tượng Uma có niên đại cuối thế kỷ 9 đầu thế kỷ 10.
Trống đồng Trà Lộc


Trống có hình dạng thân thon, đế choãi, tang phình, mặt trống được trang trí hình sao 10 cánh, xen giữa cánh sao là hình chữ V, có bảy vành hoa văn với các họa tiết như vòng tròn tiếp tuyến có chấm giữa, chim mỏ dài có mào, đuôi dài bay ngược chiều kim đồng hồ. Vòng chủ đạo mặt trống có bốn hình thuyền, chân trống choãi có năm vành hoa văn được trang trí hình bò u nổi, hình chấm dải. Trống có niên đại cách nay 2.500 năm.

Tượng Nguyễn Ư Dĩ


Tượng được đúc dưới thời chúa Nguyễn, cao 0,62m, phần vai rộng 0,30m. Nhân vật được tạc tượng là Nguyễn Ư Dĩ – cậu ruột chúa Nguyễn Hoàng. Nguyễn Ư Dĩ là người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn xây dựng cơ đồ ở Đàng Trong, nhất là thời gian 68 năm của chúa Nguyễn Hoàng đóng dinh ở đất Quảng Trị.
Tượng đồng Nguyễn Ư Dĩ được đặt một nơi không an toàn, đã hai lần bị kẻ xấu lấy cắp. Người dân làng Trà Liên, xã Triệu Giang phải dùng máy rà kim loại rà tìm mất mấy ngày, cuối cùng phát hiện bức tượng bị kẻ xấu chôn ở bờ sông Thạch Hãn. Có lẽ kẻ xấu đợi đêm xuống bỏ lên thuyền chở đi tiêu thụ vì bức tượng nặng mấy tạ, không gánh đi xa được.
read more...

Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

THẦN VISNU CỠI KIM SÍ ĐIỂU


THẦN VISNU CƯỠI KIM SÍ ĐIỂU

Nguồn Bảo tàng Guimet

Thần Visnu cỡi Kim Sí Điểu (Visnu Garudâsana)

Ngũ Hành Sơn, Việt Nam ( ?)



Nghệ thuật Chăm, nối tiếp Mỹ Sơn E1, thế kỷ 8-9

Bằng sa thạch, phong cách đa sắc muộn

Cao: 58 cm

Mã số: MA 3572

Tác phẩm này hiện vẫn còn bảo tồn rất tốt, thể hiện thần Visnu ngồi giạng chân cưỡi trên con Kim Sí Điểu (Garuda), vật cưỡi của thần. Vị thần này vốn có bốn tay cầm những bảo bối, hiện chỉ còn hai tay với món bảo bối: chiếc vỏ ốc và quả cầu. Thần đội chiếc mũ lễ hình bát giác, mặt có ria mép và chòm râu rậm ở cằm. Dái tai có xỏ lỗ đeo đồ trang sức quý. Nét mặt thần mang dấu ấn chủng tộc đặc trưng trong nền nghệ thuật Chăm. Thần mặc chiếc khố sampot ngắn, cưỡi trên con vật hình dáng kỳ lạ là Kim Sí Điểu (Garuda). Kim Sí Điểu là một con chim thần thoại (linh điểu) có thân hình người nhưng mang đầu chim. Kim Sí Điểu quỳ một chân chạm đất, hai tay ôm chân chủ nhân là thần Visnu. Qua quy chuẩn tạo hình Kim Sí Điểu và hình dạng tròn trịa của nó có thể thấy pho tượng này phỏng theo phong cách các xưởng chế tác miền Bắc Ấn.

Tác phẩm này đại diện cho các vết tích thời kỳ đa sắc muộn, nó gợi lại nhiều hình tượng nhiều màu sắc thời xưa kia.

Rất nhiều khả năng nguồn gốc pho tượng này thuộc Ngũ Hành Sơn (người Pháp dịch dảy núi Ngũ Hành Sơn là Montagnes de Marbre), thuộc huyện Ngũ Hành Sơn, tỉnh Đà Nẵng. Lưu ý các phong cách nghệ thuật của Champa thường mang tên khu di chỉ hay đền đài mà nó tiêu biểu. Nên pho tượng này được xếp vào thời kỳ nối tiếp phong cách Mỹ Sơn E1 (khoảng năm 650-730), là chứng tích cổ xưa nhất cho thấy có một thành phố Thánh địa Mỹ Sơn của người Chăm.

Đức Chính dịch và giới thiệu

*Các tư liệu trên đều do bạn Đức Chính biên dịch và cung cấp cho Blog và diễn đàn . Thay mặt Bạn đọc xin chân thành cảm ơn Bạn Đức Chính .

Việc sử dụng lại các tư liệu trên , xin vui lòng liên hệ Tác giả Đức Chính.
read more...

Thứ Ba, 29 tháng 5, 2012

ĐIÊU KHẮC CHĂM – KHO TÀNG VIỆT NAM


ĐIÊU KHẮC CHĂM – KHO TÀNG VIỆT NAM

Nguồn Musée Guimet

Bài 1: Điêu Khắc Chăm: kho tàng Việt nam

12 October 2005 – 6 February 2006

Triển lãm được tổ chức bởi Viện Bảo tàng Quốc Gia về Nghệ Thuật Châu Á Guimet với sự bảo trợ của Ngân hàng Crédit Agricole cùng đối tác tài trợ là Vietnam Airlines và La Maison de l’Indochine.



Thần voi Ganesha – Thánh địa Mỹ Sơn, tháp E 5 (tỉng Quảng nam – việt Nam) thuộc thế kỷ thứ 7, bằng sa thạch, cao 96 cm, đang bảo tồn ổ Bảo tàng Đà Nẵng. Cat.11 © Thierry Ollivier

Triển lãm này mang đến các kiệt tác từ hai bộ sưu tập chính về Nghệ Thuật Chăm ở Việt Nam: Bộ mang đến từ Đà Nẵng (48 tác phẩm) và bộ từ Viện Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh (15 tác phẩm) Thêm vào còn có 7 bức điêu khắc đang bảo tồn tại Thánh địa Mỹ Sơn (tỉnh Quảng Nam), 23 tác phẩm được tuyển chọn ra từ Viện Bảo tàng Guimet, 2 của Viện Bảo tàng Rietberg Museum ở Zurich, và 01 từ Viện Bảo tàng Guimet tại Lyon. Triển lãm này là một phần trong sự hợp tác giữa Việt Nam và Pháp nói chung, và đặc biệt hơn nữa giữa Viện Bảo tàng Đà Nẵng với Viện Bảo tàng Guimet nói riêng. Năm 2002, Viện bảo tàng Guimet đã phối hợp với Viện Bảo tàng Đà Nẵng khai trương xưởng phục hồi các tác phẩm điêu khắc, việc này thắt chặt mối quan hệ văn hóa lâu đời giữa Việt Nam và Pháp. Cuộc triển lãm này là một kết quả..



Thần Devi – Hương Quế (tỉnh Quảng Nam – Việt Nam, thế kỷ thứ 10, bằng đá, bảo tồn tại Viện Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Cat.35 © Thierry Ollivier

Toàn bộ có tác phẩm điêu khắc bằng đá, đồng và quý kim tiêu biểu cho lịch sử và minh họa các tôn giáo của vương quốc Champa cổ từng nằm ở Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay, vương quốc này hiện không còn tồn tại. Các tác phẩm được trưng bày theo niên đại, từ tác phẩm cổ nhất hiện tìm được (khoảng thế kỷ thứ 5) cho đến tác phẩm cuối (khoảng thế kỷ 15), giúp có một cái nhìn về sự phát triển hệ tượng Chăm trước khi vương quốc Champa suy tàn dần vào thế kỷ 19.

Vài dòng lược sử

Tài liệu Trung Hoa có ghi chép từ cuối thế kỷ thứ 2 đã có một vương quốc tên Lâm Ấp, tiền thân của nước Champa, Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy vùng biên cương nước Lâm Ấp chịu sự đô hộ của một Đế quốc trong vùng là nước Việt Nam ngày nay, sau tách ra thành một nước độc lập gọi là Champa mà sách Trung Hoa quen phiên âm là Chiêm-bà. Mãi đến thế kỷ thứ 6-7, các công trình kiến trúc và điêu khắc mới có bằng chứng rõ nét sự tồn tại một nhóm quốc gia chịu sự Ấn hóa nằm dọc theo Miền Trung Việt Nam.



Tượng Phật Đồng Dương (tỉnh Quảng Nam, Việt Nam) thế kỷ thứ 8-9, bằng đồng, cao 108 cm, bảo tồn tại Viện Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Cat.17 © Thierry Ollivie

Vương quốc Champa có nền văn hóa riêng mang dấu ấn của Ấn Độ về ngôn ngữ và tôn giáo: một số theo Phật giáo và một số theo Ấn giáo, ngôn ngữ là tiếng Phạn. Cổ sử của vương quốc này hiện chẳng còn bao nhiêu, nhưng thay vào đó các nghiên cứu văn bia khắc ở các đền đài, bằng tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ, có giá trị rất lớn. Do vậy, nghệ thuật Champa hiển lộ ra là một trong những nền nghệ thuật cổ của Châu Á và Đông Nam Á. Nền nghệ thuật này mang lại những tác phẩm tinh tế và mang tính thừa kế nguyên thủy từ nền văn hóa Ấn Độ cổ đại.

Người Chăm

Người Chăm gốc dân tộc Nam Đảo (Austronesian) đến định cư dọc bờ biển và lưu vực các con sông thuộc Miền Trung và Miền Nam Việt Nam hiện nay từ Thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Hiện các nhà khảo cổ cùng thừa nhận nền văn hóa Sa Huỳnh (800-200 Trước Công nguyên) là dấu vết xưa nhất nói lên sự hiện diện của người Chăm trên miền đất này, mà cũng cho thấy nền văn hóa đó có tiếp xúc giao thương với Trung Hoa và Ấn Độ. Những điều này khẳng định từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên người Chăm đã tiếp nhận các nền tảng văn minh Ấn Độ: chữ viết và tôn giáo.



Phù điêu ở trán cửa: thần Vishnu ngồi trên rắn thần Ananta cuốn tròn . Trà Kiệu – Quảng Nam, bằng đá, cai 125 cm. Bảo tồn ở Viện Bảo Tàng Đà Nẵng. Cat.53 © Thierry Ollivier

Từ thế kỷ thứ 10 người Chăm bị quân Đại Việt chinh phục và đẩy lùi dần về phía nam, ngày nay trở thành một trong 54 dân tộc ít người của Việt Nam với dân số 130.000 người, chủ yếu sống ở vùng Phan Rang. Ngiười Chăm bị xóa tên trên bản đồ địa chính trị vùng Đông Nam Á vào năm 1832 khi phần đất cuối cùng ở phía nam bị sáp nhập vào các tỉnh của Việt Nam. Thực tế vào thời kỳ này này phần lớn lãnh thổ trước đó là nước Champa đã bị bỏ phế suốt nhiều thế kỷ cho người Việt rồi và các đền đài đầy những tác phẩm điêu khắc để mặt cho thời gian tàn phá, bỏ mặc cho người mới đến chiếm đóng biến đổi chúng đi.

Một vài nét chủ đạo về nghệ thuật Chăm

Vào cuối thế kỷ 19 những người Pháp sinh sống ở Việt Nam bắt đầu quan tâm đến nền văn hóa cổ đầy những di tích kỳ ảo và cuốn hút này. Các bộ sưu tập đầu tiên do những tay nghiệp dư, nhất là ngững người được sự bảo trợ của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, đã kiểm kê, quét dọn và phục hồi các đền đài Champa. Trong một lần đưa ra triển lãm, các bức ảnh chụp của những lần khai quật đầu tiên ở hai khu di chỉ lớn Mỹ Sơn và Đồng Dương, cũng như ở nhiều di chỉ lớn khác, đã minh chứng cho chất lượng công trình của họ,



Trang trí bệ: vũ nữ quấn khăn; Trà Kiệu – Quảng Nam, thế kỷ thứ 10, bằng đá, cao 78 cm. Bảo tồn ở Viện Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.Cat.49 © Thierry Ollivier

Hệ tượng Chăm và tôn giáo

Đền đài Chăm được xây bằng gạch và trang trí bằng đá là những đền tháp được kiến trúc theo phong cách Nam Ấn. Chúng mang hình tượng ngọn núi thiêng, nơi trú xứ của các vị thần. Bộ tượng trong kỳ triển lãm này gắn bó với các đền tháp đó. Các nghiên cứu trước đây về nước Champa và nền nghệ thuật vương quốc này cho thấy ảnh hưởng Ấn Độ trên các đề nđài và tác phẩm đuêu khắc là điều rất dễ nhận ra. Các ngôi đền xây lên cho các vua Chăm (gọi là Kalan) là loại đền tháp làm nơi trú xứ cho thần linh được thờ cúng ngay tại Trần gian này. Nó gồm một ngôi đền theo phong cách Ấn Độ: vuông vức, thon nhỏ dần cho tới đỉnh với những tầng giả. Loại gạch dùng xây dựng mang tính đặc biệt của dân tộc Chăm suốt lịch sử của họ, chẳng có nước nào vùng Đông Nam Á dùng loại gạch giống vậy.

Bộ tượng ở các đền tháp này lưu giữ cả hai nền đồ tượng học của hai tôn giáo lớn ở Ấn Độ: Phật giáo và Ấn giáo, cùng với một số cách thể hiện thần linh khác. Đường nét điêu khác luôn luôn được cách điệu hóa, nhưng vẫn tồn động một vài nhân cách hóa. Suốt mấy ngàn năm tôn giáo chính ở xứ Champa là đạo Thấp-bà thờ thần Shiva (Shivaism). Dù rằng Ấn giáo thường hay được các quân vương bản địa ưu đãi, Phật giáo cũng được du nhập vào Champa. Sự duy trì tiếp xúc của người Chăm với Ấn Độ và Trung Hoa kể từ những thế kỷ đầu sau Công nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Phật giáo đến nước này. Các bộ sử Trung Hoa có ghi chép Phật giáo có mặt ở Champa từ thế kỷ thứ 5. .



Phật Bà Quan Âm, Hoài Nhơn – Bình Địn, thế kỷ 8-9, bằng đồng, cao 64 cm. Bảo tồn ở Viện Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. © Thierry Ollivier

Hai thế kỷ sau, một nhà hành hương Trung Hoa ghi nhận vương quốc Champa là một trong những nước rất tôn sùng Phật gíáo. Thời đó họ theo Phật giáo Đại thừa (Mahayana) với chứng tích là hình ảnh rất đại chúng Quan Thế Âm Bồ Tát, biểu tượng cho lòng từ bi và là một trong những nền tảng của Phật giáo Đại thừa. Nhưng đến thế kỷ thứ 8-9, sự hoằng hóa Phật giáo Đại thừa ở Champa bị thay thế, đó là kết quả của sự giao thương giữa vùng Đông Bắc Ấn Độ (ND: vùng lãnh địa của Ấn giáo) với Đông Nam Á.

Thế kỷ thứ 10 là thời hoàng kim của nghệ thuật Chăm.Nhiều đền đài thời kỳ nay còn lưu giữ đến chúng ta với tình trạng tốt cùng với số rất lớn các tác phẩm điêu khắc của các di chỉ như Khương Mỹ, Mỹ Sơn hay Trà Kiệu. Các tác phẩm vào đầu thời kỳ này (phong cách Khương Mỹ, tiền bán thế kỷ thứ 10) bảo tồn một số phong cách Đồng Dương: đền có đỉnh nhọn, vẽ mặt còn tương đối sắc nét. Ở giai đoạn thứ hai của chủ nghĩa cổ điển Chăm (phong cách Trà Kiệu, hậu bán thế kỷ thứ10 và đầu thế kỷ thứ 11), sắc thái dịu dàng hơn và các yếu tố tarng trí (nữ trang, y phục, v.v…) mềm mại hơn. Nhìn tổng thể họa tiết trang trí kiến trúc và đền đài của chúng đều khắc họa cùng một phối cảnh thanh thoát và thuần khiết.

Các di chỉ



Nam Thần; Đồng Dương – tỉnh Quảng Nam, cuối thế kỷ thứ 9 đầu thế kỷ thứ 10, cao 114 cm, bằng đá. Bảo tồn ở Viện Bảo tàng Đà Nẵng. Cat 23 © Thierry Ollivier

Mỹ Sơn

Mỹ Son, có nghĩa là “ngọn núi đẹp”, là một trong những di chỉ chính của Champa. Nằm ngay chính giữa một loại hình địa chất đài vòng, các ngôi đền kết lại thành một quần thể ôm ngôi đền chính ở trung tâm. Nằm tách biệt khỏi các đô thị và trung tâm thương mại, Mỹ Sơn từng mang đặc điểm riêng biệt của thần Shiva. Trong thời gian khai quật Mỹ Sơn vào năm 1903, Henri Parmentier đã phát hiện ra một bộ sưu tập vài pho tượng hết sức giống nhau.

Nhiều khả năng thuở ban đầu các pho tượng này được đặt trong một ngôi đền thu nhỏ ở dưới chân ngôi đền chính Mỹ Sơn thờ thần Shiva dưới dạng linga (sinh thực khí). trước khi ra chiếc bệ khắc chạm loại hình thần linh này (từ đó giải đáp được chúng), nhiều lời lý giải đã được đưa ra. Các pho tượng đó là nhữ nghộ thần canh chừng trời đất (dikpala) coi giữ tứ phương và một phương trung ương. Một số hộ thần cỡi trên con thú (vật cỡi của thần), con thú đó chạm khắc dưới chân bệ tượng, hay là thuộc tính được thần cầm giữa nơi tay. Hôm nay, các tượng thần này được đưa đến từ ba viện bảo tàng của Việt Nam để triển lãm, tất cả đều được phát hiện từ năm 1903 trở về sau..



Tượng Phật Đồng Dương, thế kỷ 13-14, bằng đồng, cao 108 cm. Bảo tồn ở Viện Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Cat. 17 © Thierry Ollivierr

Đền tháp Đồng Dương

Do vua Indravarman II xây cúng năm 875, chánh điện thờ Phật Đồng Dương được dựng phía Nam đền thờ thần Shiva khoảng chục cây số. Được xây dựng ở một đồng bằng rộng, chắc hẳn là khu đô thị lớn mang tên Indrapura, các đền tháp này bao gồm một quần thể rất to lớn các đền tháp được bố trí cách đều và liên kết với nhau theo trục Đông-Tây. Chúng nối liền nhau bởi những chái nhà lớn (tiếng Chăm gọi là gopura) thông cửa đền tháp này qua đền tháp kia. và dọc theo có những bức tượng hộ thần (tiếng Chăm gọi là dvarapala), vẽ mặt đầy đe dọa. Di chỉ này được Henri Parmentier và Charles Carpeaux phát lộ và nghiên cứu vào mùa thu năm 1902, cho thấy có một nền Phật giáo Đại thừa phát triển ở xứ này (về sau các cuộc tấn công của quân Mỹ hồi chiến tranh gần như phá hủy nó hoàn toàn). Khác hình tượng thờ cúng trong các đền tháp một phần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Tích Lan, một phần chịu ảnh hưởng đền đài Phật giáo của vùng Trung Á và Trung Hoa.

Trà Kiệu



Kitao Shigemasa (1739-1820) Phỏng theo đồ tượng Bồ tát Phổ Hiền 108 x 31,5 cm cat.24 © Ota memorial museum

Tượng thú vật tuy đa dạng nhưng chủ yếu là tượng voi và sư tử, kèm theo là hình các vũ nữ quấn khăn. Các tác phẩm điêu khắc này được phát hiện ở Trà Kiệu bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 và dặc biệt trong lần tổ chức khai quật năm 1927-27 của Jean-Yves Claeys. Các hình voi/sư tử xen nhau là dấu ấn phác họa kiểu trang trí và biểu tượng của Ấn Độ. Các vũ nữ quấn khăn (chủ đề có lẽ thuộc nguồn gốc Trung Hoa) xuất hiện ở các đền đài riêng lẻ trong khu di chỉ

Thế kỷ thứ 11

Trong bối cảnh đầy xáo trộn lịch sử của thế kỷ 17 xảy ra với vương quốc Champa trước hiểm họa đô hộ một tôn giáo mới lại đặt nền móng ở miền Nam nước này. Lại thêm một vài điện thờ xây dựng lên ở Mỹ Sơn và các vùng phụ cận, trong khi đó điện thờ lớn nhấ ltại được dựg nlên cách đó 500 km về hướng nam. Đó là cụm “tháp bạc” (ND: tức cụm Tháp Bánh Ít) đầy ấn tượng thờ thần Shiva được dựng lên trên một ngọn đồi cao, trông giống như mấy ngọn kim tự tháp liên kế nhau. Tại di chỉ này năm 1889 Eugène Navelle phát hiện ra một tượg tnhần Shiva lớn mà hiện nay được coi là kiệt tác trong bộ sưu tập Chăm ở Viện Bảo tàng Guimet.



Thần Vishnu ngồi trên rắn thần Ananta được mô tả trên lanh-tô tháp Mỹ Sơn E 1 (tỉnh Quảng Nam), thuộc thế kỷ thứ 7, bằng đá, dài 240 cm. Bảo tồn ở Viện Bảo tàng Đà Nẵng. Cat. 5 © Thierry Ollivier

Tháp Mẫm

Pho tượng đó chỉ còn lại phần cuối thân thần gajasimha (voi-sư tử) uy nghi hiện đặt ở trung tâm gian Triển lãm; nó được coi là một trong những di vật để công nhận sự hiện hữu của Tháp Mẫm. Người tìm thấy pho tượng này là một nông dân; lúc đầu người này cứ tưởng đó là một cối đá thôn quê nên định vần đi (bởi mặt hình thú úp xuống đất). Sau khi đào bới xuống một chút thì mới biết đó l;à một tác phẩm điêu khắc.

Thời suy tàn của nghệ thuật Chăm

Từ năm 1471 vương quốc Champa chỉ còn lại hai tình phía nam Kauthara và Panduranga. Thời vàng son về chính trị và thương mại của nhiều thế kỷ trước đó bị thay thế bằng bóng mây mù của sức mạnh chinh phục của Việt Nam. Từ thế kỷ 13 sức sáng tạo nghệ thuật Chăm đi vào buổi hoàng hôn dằng dặc và không sao biến chuyển khác được. Thời kỳ cuối cùng trong lịch sử Champa này chỉ còn lưu lại một vài mẩu kiến trúc, điện thờ, nhưng bù lại cho chúng ta nhiều tác phẩm lớn, các tác phẩm này biểu hiện một sự trừu tượng với kiểu cách sắc sảo. .

Viên Bảo tàng Quốc Gia về Nghệ Thuật Châu Á Guimet, do Crédit Agricole bảo trợ



Thần duy trì vũ trụ Ishana ? Ảnh 30 Mỹ Sơn, nhóm A (tỉnh Quảng Nam), thế kỷ thứ 10, bằng đá, cao 78 cm. Bảo tồn ở Viện Bảo tàng Đà Nẵng Cat. 72 © Thierry Ollivier



Độ Mẫu Tara (?), Đồng Dương – tỉnh Quảng Nam. cuối thế kỷ thứ 9 và đầu thế kỷ thứ 10, bằng đồng dát vàng, cao 115 cm. Bảo tồn ở Viện Bảo tàng Đà Nẵng. Cat. 18 © Thierry Ollivier



Họa tiết trang trí ở bệ: Con voi đang bước đi. Trà Kiệu – Quảng Nam, thế kỷ thứ 10, cao 63 cm. Bảo tồn ở Viện Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Cat. 44 © Thierry Ollivier




Vishnu cỡi vật cỡi của ngài là Kim sí điểu (Garuda). Ngũ Hành Sơn – tỉnh Quảng Nam, đầu thế kỷ thứ 9, bằng đá, cao 58 cm. Bảo tồn ở Viện Bảo tàng Guimet – Paris. Cat. 12 © Thierry Ollivier




ấu kiện họa tiết trang trí kiến trúc: Kim sí điểu (Garuda) nhiếp phục long thần (nagar). Tháp mẫm- Bình Định; thế kỷ 12-13, bằng đá, cao 109 cm. © Thierry




Đức Chính dịch và giới thiệu

*

Các tư liệu trên đều do bạn Đức Chính biên dịch và cung cấp cho Blog và diễn đàn . Thay mặt Bạn đọc xin chân thành cảm ơn Bạn Đức Chính .

Việc sử dụng lại các tư liệu trên , xin vui lòng liên hệ Tác giả Đức Chính .
read more...

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Điêu khắc Chăm: THẦN SHIVA


Điêu khắc Chăm: THẦN SHIVA

Nguồn Bảo tàng Guimet
Tháp Bánh Ít (người Pháp gọi là Tháp Bạc: Tours d’Argent), tỉnh Bình Định, Việt Nam



Nghệ thuật Chăm
Phong cách Tháp Mẫm, cuối thế kỷ 11 đầu thế kỷ 12
Chất liệu: Sa thạch.
Cao:: 165 cm
Phát hiện: Don Navelle
Mã số: MG 18130

Bức tượng này thể hiện thần Shiva có 10 cánh tay, giữa trán có con mắt thứ ba, trên mũ có hình trăng lưỡi liềm biểu tượng cho sự khổ hạnh, sợi dây Phạm Thiên (Brahman) mang hình con rắn ở trước ngực, và một tay cầm cái chén hình nửa sọ người. Ngồi trên đài sen và tựa lưng vào tấm bia, tượng thần có khuôn hình tam giác, một kiểu thức thường thấy ở hệ tượng vào các thời đại muộn của nghệ thuật Chăm. Dáng cong của thân hình, cũng như mi dưới nằm ngang và cách xử lý mái tóc, đều tiêu biểu cho nghệ thuật của vương quốc Champa. Kiểu thức sampot (chạm theo mô-típ hình móc) viền quanh các viên tròn lủng lẳng với sự tô điểm tỉ mỉ, một đặc trung của Tháp Mẫm. Dù rằng khối nổi của bức tượng hết sức mềm mại nhưng sự lãnh tịnh của việc cách điệu hóa và tính hồn nhiên của cách thực hiện khiến cho những cánh tay phụ như dính vào lưng một cách giả tạo, đó lại là cấu tạo của thể loại nghệ thuật này.
Tượng thần Shiva này được tìm thấy ở một tháp Chăm (tiếng Chăm gọi là kalan) cao 25 m.
Phần lớn tượng hình người của Champa mang hình dung người Ấn Độ, bức tượng là này điểm giao của phong cách Mỹ Sơn A1 (thời hoàng kim của nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của vương quốc nay với phong cách Tháp Mẫm. Tỉnh Bình Định có rất nhiều tác phẩm mang phong cách Tháp Mẫm chứng tỏ có một sự phát triển của nghệ thuật Chăm gốc dù rằng vẫn chịu ảnh hưởng rộng rãi của truyền thống Khờ-me thời đó.
Đức Chính dịch và giới thiệu

*Các tư liệu trên đều do bạn Đức Chính biên dịch và cung cấp cho Blog và diễn đàn . Thay mặt Bạn đọc xin chân thành cảm ơn Bạn Đức Chính .

Việc sử dụng lại các tư liệu trên , xin vui lòng liên hệ tác giả Đức Chính .
read more...

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

TRƯNG BÀY CHUYÊN ĐỀ 1000 NĂM GỐM VIỆT


TRƯNG BÀY CHUYÊN ĐỀ 1000 NĂM GỐM VIỆT



TRƯNG BÀY CHUYÊN ĐỀ 1000 NĂM GỐM VIỆT

Thế kỷ thứ 10 đánh dấu một bước ngoặt lịch sử . thời kỳ độc lập sau hơn 10 thế kỷ đô hộ của phong kiến Phương Bắc . Đăc biệt với việc định đô ở Đại La và đổi tên thành Thăng Long vào năm 1010 . Nhà Lý đã mổ ra một giai đoạn phát triển thịnh trị cả về kinh tế lẫn văn hóa trong lịch sử dân tộc .Hơn 10 thế kỷ qua . Gốm Viêt nổi tiếng khắp năm châu bốn biển với những làng gốm đã định danh trên bản đồ gốm thế giới như : CHU ĐẬU , BÁT TRÀNG , THỔ HÀ , PHÙ LÃNG , BIÊN HÒA , LÁI THIÊU …ở mỗi giai đoạn gốm Việt phát triển với những đặc trưng riêng . Gốm men ngọc thời Lý , gốm hoa nâu thời Trần , gốm hoa lam thời Lê … nhưng đều có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kỹ thuật và nghệ thuật để tạo nên những dấu ấn đặc sắc , chinh sự hòa quyện tuyệt vời giữa đất , nước , lửa với tâm hồn người Việt đã tạo nên nhiều sản phẩm gốm tuyệt tác , hiện diện trong các bảo tang lớn trên thế giới . Gốm Việt đã vượt qua không gian và thời gian để trở thành những di sản văn hóa quý báu của Việt Nam và thế giới .

Trưng bày chuyên đề ‘’ Ngàn năm gốm Việt ‘’ giới thiệu trên 260 hiện vật của Bảo Tàng TP HCM , Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam TP HCM , Bảo Tàng Mỹ Thuật TP HCM , Bảo tang Phụ Nữ Nam Bộ và một số nhà sưu tập .

Bảo tang Thành Phố Hồ Chí Minh nằm trên khu đất rộng 02 ha , giới hạn bởi các con đường Lý Tự trong , Pasteur , Lê Thánh Tôn và Nam Kỳ Khởi Nghĩa .

Ngôi nhà được xây dựng từ năm 1885 đến năm 1890 theo đề án của kiến trúc sư người Pháp FOULHOUX .

Khởi đầu ngôi nhà được xây dựng để làm Bảo Tàng Thương Mại , nhưng khi hoàn thành thì được làm tư dinh cho viên thống đốc Nam Kỳ .Sau cách mạng tháng tám (25 /8 / 1945 ) là trụ sở ủy ban hành chánh lâm thời Nam bộ . Từ 23/9/1945 là trụ sở cao ủy cộng hòa Pháp ‘’ Dinh Thủ Hiến Nam Phần ‘’, dinh Gia Long của Ngô Đình Diệm , rồi ‘’Tối Cao Pháp Viện ‘’ thời Nguyễn Văn Thiệu .

Ngày 12 /8 /1978 , Ủy ban nhân dân thành phố ra quyết định cho phép sử dụng ngôi nhà này làm bảo Tàng Cách Mạng , nay là Bảo Tàng Thành Phố Hồ Chí Minh . Diện tích trưng bày 1.200 m 2 gồm các phần trưng bày :

-Thiên nhiên khảo cổ

-Lịch sử hình thành và phát triển

-Thương cảng – thương mại – dịch vụ

-Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp

-Văn hóa ( cuối TK 19- đầu TK 20 )

-Đấu tranh cách mạng ( 1930- 1954 , 1954-1975 )

- Chuyên đề .

Một số hình ảnh









Thương cảng – thương mại – dịch vụ





Bộ Tam Thánh

Gốm Sài Gòn cuối TK 19 đầu TK 20



Quán Thế Âm











Tượng ” Đào Dây Thiết Tòa ”

Gốm Biên Hòa TK 20







Tượng Tây Vương Mẫu , tượng Trương Quả lão ,Tượng Hà Tiên Cô


Tượng hàn Tương Tử , Tượng Lã Đồng Tân



Tượng Quý Phi Mộc Dục



Tượng Diêm Vương

Gốm Sài Gòn TK 19


















Tượng Nghê đất nung

Gốm Thổ Hà TK 2o



Gốm Châu Ổ

Cuối TK 19 đầu TK 20











Gốm Quảng Đức TK 19





Còn tiếp

Hình ảnh :KHTN
read more...