Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

Nền Văn Minh Của Nhân Loại (phần I): Văn Minh Lưỡng Hà

Nền Văn Minh Của Nhân Loại (phần I): Văn Minh Lưỡng Hà

Thành viên Việt Vân ghi lại từ bài đọc “Nền văn minh nhân loại” Diễn đàn X-cafevn.org

Lưỡng Hà là nền văn minh nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates, mà nay là lãnh thổ Iraq (nguồn: Sarissa)

“… Nữ nô Dabitum hèn mọn xin kính cẩn thưa với Đại Chủ rằng điều thiếp nói trước với chàng nay đã xảy ra. Từ bảy tháng nay tội nghiệp đứa con nhỏ đã chết mà không ai muốn lo cho thiếp cả, xin chàng hãy thưong hại mà ra tay nếu không thiếp phải chết. Nếu số phận buộc thiếp phải chết thì thiếp cũng cam chịu, nhưng trước khi nhắm mắt thiếp chỉ mong sao được nhìn thấy mặt chàng lần cuối…“Bốn thiên niên kỷ đã trôi qua kể từ khi Dabitum người con gái tôi tớ bị phụ bạc đó gửi gắm tâm tư của cô đến người tình và cũng là ông chủ. Cuộc tình ngang trái đó đã diễn ra tại miền nam Lưỡng Hà mà nay là lãnh thổ Iraq.

Ngày nay sở dĩ chúng ta vẫn có thể hiểu được tâm trạng của một thiếu nữ đã sống cách đây 4000 năm và vẫn thương cảm cho tình cảnh của nàng bởi vì nàng đã dùng một phương tiện truyền thông độc đáo, đó là: chữ viết. Chữ viết giúp ta lưu truyền thông điệp qua không gian và thời gian, tổ chức xã hội, diễn tả những tư tưởng phức tạp, và cũng nhờ chữ viết mà văn học và khoa học mới nảy sinh. Tất cả những yếu tố đó đều quan trọng đối với cái ta gọi là Một Nền Văn Minh.

Chữ viết chắc chắn là một bước khởi đầu cho nền Văn Minh. Dạng chữ viết được phát minh ra tại miền nam Lưỡng Hà cách đây trên 5000 năm. Khi nàng Dabitum viết ra những hàng chữ tuyệt vọng kia thì văn tự đã hiện hữu trong nền văn hoá nam Lưỡng Hà hơn một thiên niên kỷ.

Lưỡng Hà tiếng Âu Châu là Mesopotamia, ngụ ý là miền nằm giữa hai con sông. Đó là hai con sông Tigris và Euphrates nằm trong vùng mà nay là lãnh thổ Iraq. Và điều đáng ghi nhớ là di sản văn tự của nền văn hóa cổ xưa này được để lại nhiều hơn là những gì phát xuất từ những giai đoạn về sau. Nguyên do là vì người Lưỡng Hà viết bằng cách dùng một cái que để khắc hình, hay dấu, vào một mảnh đất sét còn dẻo chỉ nhỏ bằng bàn tay. Một khi được phơi khô hay nung thì những văn tự bằng đất sét này rất bền.

Theo chuyên gia Irvin Finco ở viện bảo tàng Anh Quốc những nổ lực ghi chép đầu tiên chưa thật sự có thể gọi là văn tự. “… Ban đầu khái niệm ghi chép rất là đơn giản, ta có thể gọi đó là giai đoạn “tiền văn tự”. Người Lưỡng Hà cổ đại thường vẽ hình ảnh sơ sài để tượng trưng những gì mà họ muốn ghi chép. Chẳng hạn như khi muốn lập một danh sách các chum vại họ cẩn thận vẽ hình một cái chum lên một mảnh đất sét rồi viết cạnh đó một con số. Mãi sau này mới có người chợt nghĩ ra là hình ảnh không những có thể chỉ vật đó mà còn diễn tả vật đó trong tiếng nói”. Như vậy giả dụ tiếng Lưỡng Hà là tiếng Việt ta có thể vẽ ra một cái ấm và dùng cái đó để chỉ ra âm thanh “ấm” như trong chữ “ấm ớ” nghĩa là không có liên hệ gì với chữ “ấm nước” cả.

Người đầu tiên nghĩ ra việc dùng chữ chỉ tiếng gọi của một vật thay vì dùng hình ảnh của chính vật đó để mô tả nó chính là một thiên tài vĩ đại đã đóng góp lớn lao cho nền Văn Minh. Người này chắc hẳn thuộc dân tộc Sumer, vì Sumer nằm trong vùng Lưỡng Hà nơi văn tự đầu tiên xuất hiện trong một ngôn ngữ gọi là tiếng Sumer. Nay ngôn ngữ học gọi văn tự của người Sumer là: Cuneiform; tạm dịch là “văn tự hình góc” vì chữ cunei trong tiếng Latinh có nghĩa là “một góc”.

Cũng học giả Irvin Finco cho biết “Khi người Sumer bắt đầu dùng chữ viết họ dùng rất nhiều đường cong. Nếu muốn viết chữ “heo” họ vẽ một cái hình tiêu biểu cái mõm, hai vành tai rồi vài sợi lông tua tủa. Nhưng đất sét không phải là một loại nền tốt để vẽ những đường cong cho nên chẳng bao lâu những đường cong được quy ước hóa thành những đường thẳng mà người ta có thể nhanh chóng khắc hay nhấn vào đất sét bằng cái que, và văn tự hình góc phát triển theo lối đó. Thoạt đầu văn tự này được tạo ra không phải để viết thư hoặc là để sáng tác một tác phẩm văn học. Nên biết chữ viết phát sinh từ hệ thống thư lại. Các nha lại, nôm na là thành phần thư ký kế toán từ thời cổ đại đã muốn dùng ký tự để quản lý kinh tế một cách hữu hiệu hơn. Vì nhờ ký tự mà họ có thể kiểm soát các số liệu và lập ra những danh sách. Những chứng tích cổ nhất còn tồn tại đến ngày hôm nay là những bản kiểm kê tồn kho. Nhưng chẳng bao lâu sau khi chữ viết được phát minh người ta bắt đầu dùng nó vào những việc khác và ta thấy xuất hiện những văn bản nằm ngoài phạm vi hành chính. Đầu tiên là danh sách từ ngữ được thu lượm để dạy học và chẳng bao lâu sau đó nền văn chương sơ khai dựa trên chữ viết bắt đầu ló dạng”.


Văn tự của người Sumer: CuneiformTrong nền văn minh Sumer những bản từ vựng được soạn ra cốt là để dạy cho các thiếu niên trở thành thư lại. Đó là thành phần duy nhất trong xã hội Sumer biết đọc và biết viết. Ngay cả các vua chúa Sumer cũng hiếm có người biết chữ, cho nên những trường dạy thư lại thời đó đóng một vai trò quan trọng. Chúng ta biết kỷ luật tại các trường này rất là nghiêm khắc vì những cậu học trò tại đây đã từng kể lại những kinh nghiệm của họ qua chữ viết… Sau đây là một đoạn trích từ nhật ký của một cậu học trò Sumer viết ra vào khoảng 2000 năm trước Công Nguyên:



“Buổi sáng tôi dậy sớm nhìn Mẹ tôi nói: Mẹ cho con cái gì mang theo để ăn trưa? Con muốn đi đến trường. Mẹ đưa cho tôi hai cái bánh và tôi lên đường. Mẹ cho tôi hai cái bánh và thế là tôi đi học. Đến trường thầy Giám Thị hỏi: sao con đến trể? Tôi sợ quá, tim đập thình thình, tôi lật đật đi vào lớp trước cả ông thầy”

Và ta nên biết là người Sumer thời đó không có khắc mẫu tự để học đâu. Mẫu tự chỉ xuất hiện mãi về sau, tức là khoảng năm 1000 trước Công Nguyên tại vùng đất mà hiện nay là Syria. Nhưng học trình cho thư lại Sumer có cả môn toán cùng với môn đọc và viết.

Bà Eleno Ropson thuộc trường đại học Oxford ở Anh Quồc cho biết: “Người Lưỡng Hà đếm theo hệ lục thập phân thay vì thập phân như chúng ta ngày nay và chúng ta còn thấy tàn dư của hệ lục thập phân này qua cách chúng ta tính thời gian tức là 60 giây một phút và 60 phút một giờ. Và từ Lưỡng Hà cách đếm này đã đến với chúng ta một cách gián tiếp qua ngã thiên văn học của Hy Lạp. Ngày nay chúng ta dùng 10 ký hiệu, từ số 0 đến số 9 để viết các con số, nhưng nguời Lưỡng Hà chỉ dùng hai ký hiệu mà thôi. Chẳng hạn để viết con số 24 thì họ vẽ hai mũi tên quay về phái trái để chỉ số 20 rồi vẽ thêm bốn vạch hình cọc thẳng để chỉ số bốn. Ngoài hai ký hiệu mũi tên và cọc thì họ không còn ký hiệu nào khác, không có dấu nhân mà cũng không có ký hiệu đại số.”

Tưởng cũng nên biết máy điện toán cũng làm những bài toán khổng lồ phức tạp nhưng chỉ dựa trên hai số mà thôi, đó là số 0 và số 1. Nhưng người Lưỡng Hà đã biết đến đại số học, thậm chí họ có thể giải những phương trình với hai hoặc ba ẩn số, nhưng tất cả đều được viết ra thành văn. Những phiến đất sét để lại từ thời 2000 năm trước Công Nguyên cho thấy các bài toán mà học trò thời đó phải giải.

Bà Ropson cho biết tiếp: “Có những bài toán rất đáng chú ý chẳng hạn như tính thể tích từ kích thước và hình dạng của một đống thóc, đó là những bài toán thực dụng. Họ cũng tính toán bằng phân số hay tỷ số, nhưng cũng có những bài toán mà mục đích thuần túy chỉ là để tìm hiểu những logic của toán học. Điều đáng lưu ý nhất là họ phân biệt những bài toán thực tiễn và những bài toán lý thuyết. Dường như giới thư lại Sumer quan tâm tới toán học vì họ mê thích cái logic của nó chứ không phải chỉ vì lợi ích thực tiễn mà thôi”. Rõ ràng đó là dấu hiệu của một nền văn minh.

Nhưng Irvin Finco thì cho rằng giới thư lại còn có một sở trường khác: ”Giới thư lại luôn luôn ham thích những ngôn từ kỹ thuật, ngay từ đầu họ đã soạn ra những quyển tự điển và họ luôn luôn quan tâm đến việc góp nhặt, ghi chú các từ ngữ và cách sử dụng cũng như phiên dịch chúng. Chữ viết lần đầu tiên được phiên dịch sang một ngôn ngữ khác khi một bộ tộc Akhart thuộc giống nòi Sumit đến Sumer. Người Akhart có tiếng nói khác với người Sumer. Một số thư lại tại Lưỡng Hà ắt hẳn đã phải biết cả hai thứ tiếng nhất là khi tiếng Akhart trở thành tiếng nói thường ngày của đại chúng và tiếng Sumer chỉ còn là ngôn ngữ của sách vở và tôn giáo”.

Thành phần thư lại tại Lưỡng Hà nổi tiếng là có tài quan sát. Học giả Irvin Finco cho biết tiếp: “Quan sát là một điểm mạnh của họ, từ quan sát bệnh tật đến quan sát các vì sao và họ còn ghi lại cẩn thận những gì thấy được. Các ghi chép của họ về sự di chuyển của các hành tinh quả thật là chính xác. Cách liệt kê tỉ mỉ của họ thì quả thật không thể nào chê được. Giới thư lại Lưỡng Hà đã không tìm cách đơn giản hoá chuyện viết lách để khiến cho nhiều người biết chữ hơn. Có thể nhờ tính dấu nghề đó mà ít ai có thể cạnh tranh được với họ về toán và viết.”

Bà Eleno Ropson: ”Về căn bản hầu hết các ứng dụng về toán là đo lường vì đó là khả năng cơ bản để quản lý nhân công và vật liệu ở tầm mức lớn. Tỷ như khi phải đào lại một con kênh, một nhà trắc địa phải đo đạt rồi tính toán để suy ra con số dân phu phải thuê. Rồi mỗi năm tất cả công việc lại được thư lại tổng kết để xem dân phu có làm đủ công hay chưa. Gìới chủ nhân Lưỡng Hà cũng khôn lắm, nếu năm nay làm chưa đủ thì dân phu phải làm bù trong năm tới, nhưng nếu năm nay họ làm quá mức thì họ phải ráng chịu tức là năm tới họ không được nghỉ bù”!

Quan hệ lao động trong mấy ngàn năm qua cũng không thay đổi gì mấy phải không quí vị?


Bức tranh thế kỷ 16 của Martin Heemskerck miêu tả Vườn treo Babylon. Phía sau có thể thấy lờ mờ hình Tháp Babel (Nguồn: Wikipedia)Nên biết đào kênh khơi ngòi là một công việc sống còn đối với một dân tộc cần phải có nguồn nước của các sông Tigris và Euphrates để tưới những cánh đồng khô cằn của họ. Học giả Jeremy Black thuộc trường đại học Oxford giải thích tầm quan trọng của các công trình này được phản ánh qua văn học Lưỡng Hà như thế nào nhất là trong huyền thoại sáng thế của họ: ”Trong huyền thoại của người Lưỡng Hà các vị Thần trẻ được mô tả như là những công nhân vô kỷ luật bị đưa đi lao động ở những công trường xây dựng như được mô tả trong bài thơ Atahashi:



Thiên thần lam lũ đào kênh khơi ngòi
Khai thông huyết mạch làm đất phì nhiêu
Đào sông Tigris vét dòng EuphratesThiên thần nhọc mệt đếm ngày đếm tháng
Hơn ba ngàn năm đêm đêm ngày ngày
Kêu lên cãi cọ còn đất còn đào

Thấy các thiên thần làm cu li quá khổ thượng đế bèn tạo ra con người để gánh bớt cái nợ đời cho họ. Huyền thoại sáng thế này còn phản ánh thời tiết, địa dư và sinh thái của vùng Lưỡng Hà nữa. Tỷ dụ như truyền thuyết về lụt lội. Nên biết sông Tigris có thể gây ra những trận lụt khổng lồ vào mùa xuân. Vùng Lưỡng Hà mà nay là Iraq vốn rất bằng phẳng thành ra nước sông không cần phải dâng cao cho lắm cũng có thể làm ngập toàn bộ vùng đất này”.

“Có một giả thiết cho rằng sở dĩ nền văn minh đã phát triển tại miền nam Lưỡng Hà cũng như tại các nền văn minh cổ sơ khác nhu Ai Cập và Trung Quốc là vì nhu cầu về nguồn nước của nông nghiệp. Nông nghiệp càng phát triển thì cần phải có một cơ cấu hành chánh và văn minh nảy sinh từ hệ thống hành chánh. Nhưng lúc gần đây các nhà nhân chủng và khảo cổ lại cho rằng vùng nam Lưỡng Hà chỉ cần một hệ thống thủy lợi cỡ nhỏ cũng đủ để thỏa mãn nhu cầu của họ. Nếu điều đó là đúng thì có lẽ xã hội đã trở nên phồn thịnh trước rồi cơ cấu hành chánh phức tạp mới theo sau”. Đó là lời của giáo sư Nicholas Pausecase thuộc đại học Cambrige.

Từ “Văn Minh” như chúng ta biết có thể bao hàm các giá trị tinh thần cũng như vật chất. Về vật chất nhờ văn minh mà cuộc sống được phồn thịnh hơn, xã hội cũng được cai quản tốt hơn. Chữ viết cũng đã có vai trò trong chiến tranh. Trong số văn bản cổ xưa đến từ Lưỡng Hà có một báo cáo của một chỉ huy trình lên cấp trên như thế này:

“Đã năm ngày nay bề tôi đóng ở chỗ như đã thỏa thuận để chờ cho đám quân từ Hana tới, nhưng họ không chịu tập trung dưới cờ. Vậy rất mong tướng quân chấp thuận cho bề tôi đem một số phạm nhân trong ngục ra chém đầu bêu quanh doanh trại để cho các binh sĩ kinh sợ mà mau chóng tập trung lại”.

Dân Lưỡng Hà xem ra cũng khá hiếu chiến và có vẻ cũng chẳng xem trọng tính mạng con người hơn những dân tộc cổ đại khác. Nhưng trong xã hội Lưỡng Hà vẫn có một cái gì đó mà ta có thể gọi là văn minh được. Chẳng hạn như có các vị vua đã dựng lên những tấm bia ghi lời tuyên bố của họ cấm người giàu bóc lột người nghèo. Và đôi khi họ còn giúp đỡ dân nghèo bằng cách xóa nợ và nhờ đó mà nhiều trẻ em bị đưa đi làm nô lệ đã được sớm về đoàn tụ với gia đình. Hành động nhân đạo đó đã được ghi lại trong các Chiếu Dụ của vua chúa Lưỡng Hà hồi 2350 đến 2400 trước Công Nguyên. Các từ ngữ nói lên các giá trị văn minh xuất hiện trong đủ mọi thứ văn bản của thời đó.

Giáo sư Jeremy Black thuộc đại học Oxford cho hay: ”Tỷ như hai chữ “Nhân Bản”, ta có thể tưởng đây là một khái niệm hiện đại nhưng thực ra nó đã có từ thời Lưỡng Hà. Trong một luận văn viết theo thể đối thoại mà các học trò thời đó phải học, ông thầy nói với học trò như thế này:

”Ta đã cho con tất cả những gì con có, khi con đến với ta con như một con chó con chưa mở mắt, ta đã giúp con nên người, ta đã cho con Nhân Bản.”
Đoạn văn này đã dùng đúng chữ Nhân Bản, danh từ trừu tượng chỉ đức tính của con người. Và đó ắt hẳn như một cái gì tương tự như là khái niệm của chúng ta về một giá trị văn minh. Có một từ trong tiếng Sumer, một danh từ số nhiều gọi là “Mi”, rất khó dịch sang một thứ tiếng khác. Mi là sức mạnh điều hành vạn vật kể cả văn minh của con người. Đôi khi Mi được mô tả như một cái gì rất cụ thể chẳng hạn như một ngôi đền hay một xã hội văn minh vì lý do nào đó bị suy đồi thì người ta nói cái Mi của chúng bị gom lại và vứt một xó như là một đống dụng cụ vô dụng. Nhưng đôi khi Mi cũng được liệt kê thành một danh sách bao gồm công lý, trí khôn, hòa bình, chiến tranh, tiếng nói và yên lặng như thể chúng là yếu tố cấu thành của văn minh. Và Mi còn bao gồm vương chế và các cấp bậc tôn giáo cùng những cơ cấu vô hình cần phải bảo trì. Trách nhiệm của nhà vua và các vị thần thánh là điều hành mọi chuyện sao cho đúng để bồi dưỡng cái Mi của xã hội và vũ trụ. Điều này cho thấy người Lưỡng Hà xem văn minh là một cái gì rất mong manh mà sự tồn tại tùy thuộc vào ý chí và đạo đúc của con người.”


Điêu khắc hành lễ tìm thấy ở Tell Asmar (Iraq), có tuổi từ 2750 tới 2600 trước Công Nguyên (Nguồn: Wikipedia)Ở Lưỡng Hà các tổ chức chính trị đầu tiên chính là thành phố. Di tích của các thành phố cổ hơn Lưỡng Hà được tìm thấy tại các nơi khác ở Trung Đông nhưng không đâu có thể so sánh được với sự phổ biến của các thành thị này tại vùng đồng bằng nam Lưỡng Hà. Chính văn hóa thị thành này có vẻ đã tạo ra những triển vọng mới cho loài người. Dù sao đi nữa thì danh từ Văn Minh mà ta dùng để dịch chữ Civilization của tiếng Anh thì trong đó có chữ Latin “Civil” có nghĩa là “một người dân thành thị”.



Giáo sư Nicholas Pausecase thuộc đại học Cambrige giải thích: ”Mỗi thành thị Lưỡng Hà có một vị thần đỡ đầu, thần này ủy quyền cho nhà chức trách để thay thần chăm lo cho dân chúng. Đôi khi người lãnh đạo này được mô tả như một người chăn cừu mà chủ của bầy cừu là vị thần đỡ đầu, còn dân chúng tất nhiên là bầy cừu. Mỗi thành phố có một huyền thoại như thế. Khi thành phố tập hợp lại thành một Vương Quốc thì người cai trị tối cao là Vua. Vào khoảng các năm 2700 – 2600 trước Công Nguyên hay muộn hơn có một vị vua tên là Kist, người nắm quyền kiểm soát một số các đô thị Lưỡng Hà nhưng không nhân danh một thần thánh nào cả. Lại có một thành phố khác mà có vẻ như được coi là trung tâm tôn giáo của nam Lưỡng Hà, đó là Nipua. Người cai trị Nipua hầu như không bao giờ có quyền lực chính trị nhưng lại được chấp nhận như lãnh tụ tinh thần của toàn bộ nam Lưỡng Hà. Sau này thành phố nổi tiếng nhất Lưỡng Hà là Babylon đã trở nên một trung tâm quyền lực.”

Nên biết tất cả các thành phố của vùng Lưỡng Hà đều sống nhờ vào nông phẩm thặng dư do các vùng quê chung quanh sản xuất. Việc phát minh ra lưỡi cày mới đã khiến cho Lưỡng Hà phồn thịnh về kinh tế và nhờ vậy đóng góp vào việc tạo dựng một nền văn minh.

Văn học Lưỡng Hà có những vần thơ tuyệt đẹp về khung cảnh đồng nội. Trong bài thơ sau đây khi tân lang của nữ thần Inana được những người hầu gái dẫn vào chiếc giường hợp cẩn, họ thỏ thẻ bên tai chàng:

Mong chàng như một nông phu vun xới cánh đồng Như một kẻ chăn cừu con chiên đầy đàn Mong thay trên giàn nho trổ thành chùm Ngoài đồng lúa mạch trổ bông Dưới sông cá chép tung tăng Trên đồng chim cò ríu rít Trong gió bãi sậy rì rào Mong thay, sa mạc đón mừng cây cỏ Rừng rú vui vầy hươu nai Những thửa vườn xanh mát sẽ cho mật ngon rượu nồng Và rau tươi trái ngọt ê hề Mong thay, với đức độ của chàng Đời sống hoàng cung sẽ trở thành vĩnh cửu

Tất cả những thứ tình cảm, hỷ, nộ, ái, ố được mô tả trong văn học Lưỡng Hà đã làm cho người ta ngạc nhiên, vì cho dù hơn 4000 năm đã trôi qua chúng vẫn rất gần gũi với con người đương đại. Nền văn minh Lưỡng Hà là mốc cổ xưa nhất mà di tích còn cho phép chúng ta tiếp cận được qua văn tự. Nếu đúng như ước đoán ngôn ngữ con người đã hiện hữu cách đây khoảng một triệu năm, thì, nói một cách tương đối, bốn hay năm ngàn năm đó cũng chẳng cách xa chúng ta là bao nhiều. Và người Lưỡng Hà trên nhiều phương diện rất giống chúng ta.

(Theo BBC)
http://danluan.org

Digg Google Bookmarks reddit Mixx StumbleUpon Technorati Yahoo! Buzz DesignFloat Delicious BlinkList Furl

0 nhận xét: on "Nền Văn Minh Của Nhân Loại (phần I): Văn Minh Lưỡng Hà"

Đăng nhận xét