Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012

Loạt bài: Những thiên thần của danh họa Picasso


Loạt bài: Những thiên thần của danh họa Picasso

Người đẹp màu hồng Fernande Olivier
Năm nay thế giới kỷ niệm 130 năm ngày sinh của danh họa người Tây Ban Nha - Pablo Picasso (1881 - 2011). Trong di sản to lớn mà Picasso để lại cho hậu thế, đáng chú ý là hàng loạt bức chân dung phụ nữ, những người tình là nhân tố kích thích sự thăng hoa của ông lên đỉnh cao nghệ thuật.

Không có nghệ sĩ vĩ đại nào mà có nhiều mối tình và yêu mãnh liệt như Pablo Picasso. Có lần ông đã nói: “Quả là bất hạnh, nhưng cũng có thể là hạnh phúc khi tôi nhìn sự vật qua lăng kính của tình yêu”. Ông cần phụ nữ như người ta cần không khí để hít thở. Họ thắp sáng ngọn lửa tài năng nơi ông. Tuy vậy, sau đó họ lại giống như thanh củi khô, cháy tàn lụi đến tận gốc khi trở thành chính nạn nhân của Picasso…



Người phụ nữ nằm khỏa thân - Ảnh: Wikipedia Picasso

Tất cả những người tình, vợ của họa sĩ người Tây Ban Nha này đều trẻ và đẹp. Khi Picasso còn trai tráng - 19 tuổi, rồi 35 tuổi, 50, hay là cụ ông 74 tuổi thì người tình của ông vẫn luôn là những cô gái tuổi 17, 23… Điều đáng chú ý hơn, như số phận run rủi, mỗi một người đẹp của Picasso đều ghi dấu ấn trong các giai đoạn sáng tạo nghệ thuật của ông. Với người tình đầu tiên - Fernande Olivier, đó là người đẹp của “thời kỳ màu hồng”. Chuyện tình của Picasso và Olivier lãng mạn nhưng cũng đầy bi thương.

Jazz trên khung vải

Vào năm 1904, do quá đau buồn và sốc khi người bạn thân là Carlos Casagemas tự tử, để thay đổi không khí nặng nề, Picasso chuyển đến sinh sống tại khu phố nghèo Bateau Lavoir ở Paris. Nơi đây ông đã gặp và yêu người hàng xóm là Olivier. Khi đó Picasso 23 tuổi, còn Olivier mới 17 (có tài liệu nói Olivier lúc này 23 tuổi). Cô hàng xóm có thân hình đầy đặn, ngay lập tức hút hồn danh họa. Picasso mời Olivier làm người mẫu để vẽ tranh và chỉ một vài lần như thế, cô trở thành người tình của họa sĩ.

Hai người sống khá đạm bạc, nhưng Picasso hứng khởi trước sắc đẹp của Olivier nên vẽ rất nhiều chân dung về cô. Đặc biệt, danh họa bị cuốn hút trước thể hình của người tình nên đã thử nghiệm cả về phong cách lẫn hình thức trong sáng tác của mình. Vẽ Olivier, lúc thì ông phóng to đôi bàn tay của người mẫu, khi lại làm lớn đôi chân hay kéo dài thân thể của Olivier. Có lẽ chính vì sự cách tân này mà một số nhà phê bình mỹ thuật cho rằng danh họa vẽ tranh có phần “thô kệch”. Trong khi đó, nhiều người khác thừa nhận đó mới là sáng tạo nghệ thuật đích thực. Dường như Picasso muốn tìm tòi, khám phá những chuẩn mực trong nét đẹp của Olivier. Nhưng công bằng mà nói, dù là thể nghiệm hay sáng tạo nhưng khi vẽ chân dung Fernande Olivier, danh họa đã chạm tới ranh giới của cái đẹp và sự cân đối, hài hòa. Kết quả của giai đoạn này là vào năm 1905, Picasso vẽ bức họa Fernande mặc áo choàng đen, hay Người phụ nữ nằm khỏa thân… là hai trong nhiều chân dung của người tình mà Picasso thực hiện theo trường phái hiện thực.

Chính trong thời gian yêu Olivier, Picasso đoạn tuyệt với “giai đoạn xanh” (chuyên sử dụng gam màu xanh u tối, nặng nề) để hướng tới màu sắc hồng - vàng tươi sáng đầy sức sống mà các nhà phê bình mỹ thuật gọi là “giai đoạn màu hồng”. Một trong những sáng tác tiêu biểu của giai đoạn màu hồng là tuyệt phẩm Cô gái trên quả cầu mà sự ra đời của nó là nhờ mối tình giữa Picasso với Olivier.

Sau giai đoạn màu hồng, khi vẫn còn yêu Olivier, danh họa chuyển qua “giai đoạn châu Phi”, rồi thử nghiệm trường phái “lập thể”. Vào năm 1909, ông vẽ bức tranh Người đàn bà với những trái lê. Với tác phẩm này, Picasso đã thể nghiệm các nguyên tắc mà họa sĩ Paul Cezanne đề ra: “Bạn phải nhìn thấy trong thiên nhiên các khối trụ, khối cầu và khối chóp nhọn”. Dựng chân dung người phụ nữ nhưng các nét vẽ trên gương mặt lại là các đường nét của hình học căn bản. Đến nỗi người xem có cảm giác đó là sự phi lý. Không gian và sự vật đã được lồng ghép, đan chéo, thậm chí còn đè lên nhau giống như một sự lộn xộn. Song, chúng được bàn tay và khối óc của một nghệ sĩ tài ba sắp đặt có chủ ý một cách hoàn hảo.

Có thể thấy, yêu Olivier, Picasso đã tìm thấy niềm đam mê, sự hứng khởi trong hội họa. Thời kỳ này, các nhà phê bình mỹ thuật ví các bức tranh của ông như thể loại jazz trên khung vải. Nhưng tiếc thay, sau 9 năm chung sống, cô hàng xóm lúc đầu yêu “người Tây Ban Nha gàn dở có đôi mắt biết nói” và cao hơn Picasso một cái đầu lại muốn làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa hai người. Khi đó, Olivier luôn nói đến chuyện kết hôn, sinh con và hai người sống dài lâu bên nhau. Nhưng danh họa lại chưa, hay nói chính xác hơn là, không sẵn sàng với những đòi hỏi như thế.

Và khi Olivier muốn hướng đến cuộc sống bền chặt thì tình cảm của Picasso với thiên thần này bắt đầu nguội lạnh. Trạng thái tình cảm đó được danh họa thể hiện trong hai tác phẩm về Olivier mang tên Tượng bán thân người đàn bà và Đầu người đàn bà. Trong hai tác phẩm này không còn thấy sự ngợi ca vẻ đẹp của người đàn bà đang yêu mà lại khắc họa những khiếm khuyết về ngoại hình của người phụ nữ. Cuối cùng thì Picasso cũng bị một vẻ đẹp khác thu hút. Vẻ đẹp đó mang tên Eva Gouel.

9 năm Picasso sống với Olivier để rồi đi đến một kết thúc không có hậu. Cuộc tình qua đi nhưng dấu ấn nghệ thuật còn lưu đọng trong hàng loạt bức chân dung người tình của danh họa. Hơn thế, còn nhiều tác phẩm khác mà trong đó hình tượng Olivier giống như một mô-típ để họa sĩ thỏa sức thể nghiệm sáng tạo cho ra đời nhiều tuyệt phẩm để lại cho hậu thế.


Nàng Eva của tôi
Sau 9 năm chung sống với người tình đầu tiên - Fernande Olivier, vào năm 1911, Pablo Picasso gặp Eva Gouel và bước vào vòng xoáy của mối tình mới.

Với Picasso, nhu cầu yêu và được yêu luôn mãnh liệt. Nếu thiếu vắng tình yêu có lẽ sẽ không có danh họa Picasso - một trong những nghệ sĩ vĩ đại nhất của thế kỷ 20. Có lần danh họa thổ lộ: “Tôi không thể vẽ nếu như không biết rằng ở phòng bên cạnh có một người phụ nữ đang chờ tôi”.

Dường như với phụ nữ, quả là nan giải khi đứng trước Picasso. Dòng máu Tây Ban Nha sôi động, mãnh liệt luôn chảy trong huyết quản của con người đầy tài năng này. Ánh mắt biết nói của Picasso dường như có thể khuất phục bất cứ phụ nữ nào. Năng lượng tình yêu (hay chính xác hơn là tình dục) của ông quá mạnh để có thể cuốn phăng bất cứ vật cản nào. Chuyện tình của ông với Eva Gouel (tức Marcelle Humbert) minh chứng cho điều này.



Bức tranh Vĩ cầm - Tôi yêu Eva

Picasso đến với Eva Gouel trong tình thế khá phức tạp. Khi đó ông vẫn còn chung sống với Fernande Olivier, còn Eva Gouel lại là người yêu của bạn ông - họa sĩ Louis Marcoussis, người Ba Lan. Hơn thế, Picasso và Marcoussis khá tâm đầu ý hợp, khi cả hai đều theo đuổi trường phái lập thể. Khi Olivier đòi Picasso tổ chức đám cưới thì ông bắt đầu chán người đẹp này. Trong mắt Picasso lúc đó Olivier là người đàn bà nguội ngắt, còn ngoại hình trông quá ngán.

Eva Gouel lại là hình ảnh hoàn toàn đối lập với Olivier. Vóc dáng của Eva kiểu mình hạc xương mai, còn tính cách dịu dàng, có phần yếu đuối, tạo cảm giác đụng nhẹ vào là sẽ vỡ. Năm 1911, hai người gặp nhau tại quán cà phê Hermitage ở Paris. Khi đó Picasso 31 tuổi, còn Eva Gouel 27 tuổi. Cuộc gặp gỡ định mệnh đó lại thắp sáng ngọn lửa sáng tạo nghệ thuật của họa sĩ thiên tài. Ông vẽ bức chân dung Người đẹp của tôi (1911) theo trường phái lập thể với tốc độ nhanh khủng khiếp.



Bức ảnh đen trắng duy nhất còn lại của Eva Gouel

Khi Picasso vừa hoàn tất tác phẩm, một lần nọ, nữ văn sĩ người Mỹ - Gertrude Stein đến thăm ông. Bà nhìn thấy bức tranh rồi nói: “Đây không phải là Fernande Olivier!”. Đúng như thế, trên nền vải là hình ảnh của người phụ nữ đã thay thế Olivier để chiếm chỗ trong trái tim danh họa. Nói cách khác, bức Người đẹp của tôi là sự thú nhận và là lời tỏ tình của Picasso với Eva.

Như hai thỏi nam châm hút vào nhau, Picasso và Eva ngay lập tức chia tay người mình đang yêu để bước vào cuộc tình mới. Việc danh họa yêu người yêu của bạn quả là “chuyện khó chấp nhận”, khiến những người quen biết đàm tiếu. Để tránh mọi sự dị nghị, Picasso cùng Eva rời nước Pháp, du ngoạn tại nhiều nơi ở châu Âu. Họ chỉ muốn luôn luôn bên nhau mà không có một ai khác xen vào chuyện tình cảm của mình.

Picasso rất sung sướng khi gọi Eva Gouel là Eva - người phụ nữ đầu tiên trên trái đất.

Mối tình của Picasso với Eva trùng với giai đoạn ông chuyển từ trường phái lập thể phân tích sang trường phái lập thể tổng hợp. Với trường phái lập thể phân tích, Picasso cũng như Braque đã mạnh dạn phá bỏ cách phản ánh đối tượng biểu hiện được hiểu theo truyền thống, xóa đi ranh giới giữa hình thức cổ điển và không gian của bức tranh. Trường phái này được thể hiện rõ nét trong tác phẩm Khỏa thân - Tôi yêu Eva mà Picasso hoàn thành vào năm 1912.

Cũng cần nói thêm, các họa sĩ theo phong cách lập thể nói chung và Picasso nói riêng ban đầu bị giới phê bình mỹ thuật phê phán lối vẽ hình họa của họ. Còn Picasso trong khi theo đuổi trường phái lập thể, ông thể nghiệm cả nghệ thuật châu Phi khi khắc họa các gương mặt như những chiếc mặt nạ hay thân hình phụ nữ đầy góc cạnh với những “nhát chém” sắc lẹm.

Công bằng mà nói, trong nghệ thuật nói chung, những người khai phá con đường mới thường mong muốn phá bỏ cái cũ. Chẳng thế mà thủ lĩnh thơ ca của Chủ nghĩa vị lai - nhà thơ người Nga Vladimir Mayakovsky lúc sinh thời từng lên tiếng đòi đốt bỏ thi ca của các nhà thơ cổ điển Alexander Pushkin hay Mikhail Lermontov. Với Picasso không đến mức thế, nhưng ông cùng các đồng nghiệp đã tách khỏi hội họa truyền thống từ thời Phục hưng chỉ dùng một diện đơn thuần, bị giới hạn để thể hiện nhiều diện của một đề tài trên cùng một khung vải để diễn tả nhiều ý tưởng.

Theo đuổi trường phái lập thể tổng hợp, Picasso cố gắng thể hiện sao cho bề mặt của bức tranh có giá trị như chính đối tượng được phản ánh. Ông chú trọng đến bề mặt của vải gai (vải phíp) của tác phẩm, dùng các thủ pháp trang trí để nhấn mạnh chi tiết từ tảng đá, đến cây cảnh… Bức tranh: Vĩ cầm - Tôi yêu Eva (1912) là một điển hình của trường phái lập thể tổng hợp.

Trở lại với người đẹp Eva Gouel, quả là đáng ngạc nhiên khi Picasso không vẽ bức chân dung nào ngợi ca vẻ đẹp bên ngoài của nàng. Rong ruổi cùng Eva ở châu Âu, đến năm 1915, Picasso có ý định cưới nàng làm vợ, nhưng vóc dáng mình hạc xương mai của cô lại ẩn chứa căn bệnh hiểm nghèo: lao phổi. Vào mùa xuân năm 1915, người tạo nguồn cảm hứng để Picasso theo đuổi trường phái lập thể tổng hợp đã qua đời tại bệnh viện.

Hạnh phúc tràn trề bỗng quay mặt với danh họa. Trong những ngày Eva bệnh nặng, Picasso viết thư cho một người bạn: “Cuộc sống của tôi quả là địa ngục. Cả tháng trời Eva đau ốm, nằm trong bệnh viện, còn tôi buộc phải ngừng công việc của mình”. Than thở là thế, nhưng khi Eva ra đi, trong một bức thư khác Picasso viết: “Eva nhỏ bé của tôi đã chết… đau đớn quá… cô bé tội nghiệp thật dịu dàng với tôi…”. Người ta bảo Picasso là người thô bạo trong tình yêu, nhưng thực tế ông là người tình nhiệt thành. Bởi vấn đề không phải là một tình yêu lâu dài, bền chặt mà là yêu như thế nào.


Madame Picasso
2 năm sau ngày người tình thứ hai - Eva Gouel, qua đời vào năm 1917, Picasso yêu và cưới nữ nghệ sĩ ballet người Nga - Olga Khokhlova. Đây là cuộc hôn nhân chính thức đầu tiên của danh họa người Tây Ban Nha này.

Vào năm 1917, Sergey Diagelev - chủ đoàn nghệ thuật ballet Nga dàn dựng vở Cuộc diễu binh tại Nhà hát Châtelet ở Paris. Ông mời Picasso đảm nhiệm phần thiết kế trang phục và trang trí mỹ thuật cho vở diễn. Làm việc tại đoàn nghệ thuật, Picasso làm quen với nữ nghệ sĩ Olga Khokhlova, con của một vị tướng thời Sa hoàng. Bạn bè thân thiết của danh họa quả là bất ngờ khi ông đặc biệt chú ý đến nữ nghệ sĩ “không có gì nổi bật” này. Có thể do Picasso quá mệt mỏi với các cô gái đẹp bốc lửa và nhìn thấy trong Olga Khokhlova hình mẫu bình dị để tâm hồn đầy giông bão của mình có thể ẩn náu.

Cũng cần nói thêm, vào đầu thế kỷ 20, tại châu Âu, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, nghệ sĩ múa người Nga khá được ưa thích. Và cũng như mọi người, việc Picasso mê nữ nghệ sĩ ballet Nga cũng được coi là mốt thời thượng. Yêu Olga, Picasso còn học cả tiếng Nga nhưng không thành. Ông chiều chuộng, chăm sóc nữ nghệ sĩ, nhưng Sergey Diagelev cảnh báo: “Hãy cẩn thận, cô ấy là người Nga. Đừng đùa với người Nga, đã yêu là phải cưới”. “Anh đùa phải không?”, họa sĩ hỏi lại vì ông vững tin mình là người luôn làm chủ tình thế trong bất kỳ tình huống nào.

Đoàn nghệ thuật ballet Nga sau đó sang Mỹ lưu diễn, còn Olga ở lại với Picasso. Cô cùng danh họa đến Barcelona, Tây Ban Nha để ra mắt gia đình Picasso. Bà mẹ của Picasso cảm thấy rất lo lắng khi người con trai lại muốn cưới một phụ nữ nước ngoài. Để mẹ bình tâm, Picasso vẽ tặng bà bức tranh Olga trong bộ trang phục Tây Ban Nha và sau đó cùng nàng trở về Paris. Tháng 6.1918, hai người tổ chức đám cưới tại nhà thờ Thánh Alexander Nevsky ở Paris. Olga trở thành madame Picasso ở tuổi 26, còn Picasso khi đó đã 37 tuổi. Chứng kiến lễ cưới còn có các nhà thơ, nhà văn kiêm họa sĩ người Pháp là Max Jacob, Jean Cocteau cùng nhiều nghệ sĩ tên tuổi khác.



Chân dung Olga ngồi trên ghế (1917)



Chân dung Olga 4 (1921)

Yêu say đắm và mạnh mẽ, đến nỗi trong thời gian này Picasso thay đổi hẳn phong cách vẽ tranh chỉ vì vợ. Olga không thích trường phái lập thể hay trừu tượng mà theo cô khó hình dung nổi đó là cái gì. Cô càng không thích các thử nghiệm mới mẻ nhưng “rối rắm” trong hội họa nên người đẹp này nói với chồng: “Em chỉ muốn bức chân dung với gương mặt thật của mình”. Do vậy, hầu hết các bức chân dung Olga đều được Picasso vẽ theo phong cách hiện thực.

Trở thành người mẫu và là người tình tuyệt vời, nhưng Olga Khokhlova lại không thể là người vợ tốt đối với Picasso. Đơn giản là hai người quá khác nhau: Danh họa thích chui vào xưởng vẽ làm việc, còn Olga chỉ mong thấy ông trong các sự kiện quan trọng. Picasso là người tự do, phóng túng có phần ngang ngược, nhưng Olga lại muốn ông trở thành họa sĩ đáng kính của giới thượng lưu.

Ngay sau đám cưới, Olga đã lên kế hoạch nhằm cải biến chồng. Cô sửa sang nhà cửa, mua những đồ gỗ sang trọng đắt tiền, sắm các bộ váy áo lộng lẫy. Nữ nghệ sĩ ballet bị cuốn hút vào cuộc sống của giới thượng lưu. Cô tham dự các buổi tiệc tùng, dạ hội, ăn uống tại các nhà hàng sang trọng. Picasso không ngăn cản những việc làm của vợ. Thậm chí ông còn “ngoan ngoãn” nghe theo lời người vợ trẻ. Lúc đầu ông khá thích thú với ý tưởng trở thành họa sĩ của giới thượng lưu. Ông hãnh diện với vẻ đẹp của Olga và hài lòng khi cho rằng người vợ trẻ biết thu xếp công việc gia đình. Picasso cùng Olga thường dự dạ tiệc của những người quyền quý. Thậm chí, Olga có lúc đã tách được danh họa khỏi các bạn bè thân thiết - những người trước đây có ý định ngăn cản Picasso cưới cô.

Có lẽ buổi ban đầu Picasso chung sống với Olga quả là hạnh phúc. Những bức họa chân dung tuyệt đẹp của người vợ Nga liên tục được ông vẽ bằng tất cả niềm mê say: Chân dung Olga ngồi trên ghế; Olga đội mũ; Olga ngồi đọc sách; Chân dung Olga; Đầu người phụ nữ - Olga; Olga mặc áo cổ lông... Có khoảng trên 30 bức chân dung Olga được Picasso vẽ và bám sát trường phái hiện thực. Xem các bức tranh có cảm giác ông sẽ không từ bỏ trường phái này. Không ít bạn bè hay các nhà phê bình mỹ thuật phê phán Picasso thay đổi chính mình trong nghệ thuật, nhưng danh họa phản ứng lại khá gay gắt: “Cứ mỗi lần muốn nói điều gì đó, tôi sẽ nói theo phong cách mà theo cảm nhận của tôi là cần phải nói như thế”. Rõ ràng, Olga đã tác động vào sự thay đổi của chồng. Bởi cô vốn dĩ không ưa thích hội họa và chỉ chấp nhận các bức tranh vẽ theo trường phái hiện thực mà thôi.

Nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Chỉ sau một, hai năm, Picasso đã quá chán cuộc sống bị ràng buộc vốn không hợp với bản tính của ông. Danh họa cho giai đoạn sống tưởng như hạnh phúc ấy là “cuộc khiêu vũ trá hình”. Ông lại trở về với phong cách sống phóng khoáng, trà dư tửu hậu thâu đêm với bạn hữu một thời, để nhà cửa bừa bộn... Các cuộc cãi vã giữa Olga và Picasso ngày càng làm cho quan hệ giữa hai người trở nên xa cách, lạnh lùng. Thậm chí vào năm 1921, khi Picasso 40 tuổi, Olga sinh cho ông một đứa con trai nhưng cũng không cứu vãn được tình thế. Yêu quý con nhưng lạnh nhạt với Olga, Picasso vẫn vẽ nhiều chân dung Olga cùng con trai nhưng theo trường phái Tân cổ điển.

Cuộc sống gia đình với Picasso chỉ kéo dài thêm được hai năm. Hạnh phúc tan vỡ, nhưng về hình thức Olga vẫn là vợ của Picasso. Bởi khi cưới người đẹp, danh họa tin rằng đó sẽ là lần duy nhất ông lấy vợ. Vì thế, Picasso làm hợp đồng ghi rõ nếu ly dị, Olga sẽ hưởng một nửa số tài sản, kể cả các bức tranh của ông. Vì không muốn chia tài sản, nên Picasso không ký đơn ly dị. Olga qua đời năm 1955 ở miền nam nước Pháp. Khi nghe tin vợ mất, Picasso không đến dự lễ tang và nói: “Giờ đây thì bà ấy biến mất hẳn”. Nhưng danh họa đã lầm. Các bức vẽ Olga của ông vẫn còn đó. Chúng như lời tỏ tình của một tình yêu có khởi đầu đẹp nhưng lại kết thúc trong bi kịch.


Marie-Therese Walter và bức tranh kỷ lục
Vào năm 1927, khi vẫn còn chung sống với người vợ chính thức đầu tiên - Olga Khokhlova, Picasso đã gặp cô gái 17 tuổi là Marie-Therese Walter rồi theo đuổi và yêu cô gái trẻ trung này.

Cuộc sống với Olga Khokhlova ngày càng đi vào bế tắc. Nữ nghệ sĩ ballet người Nga này đòi hỏi ở Picasso quá nhiều. Có lần Olga đưa cho ông xem bức tranh của Rembrandt rồi nói: “Anh sẽ không bao giờ trở thành họa sĩ thời thượng như thế”. Thực tế thì danh họa ngày càng nổi tiếng, không chỉ ở Mỹ mà còn cả ở Thụy Sĩ, Anh. Ngay sau cuộc triển lãm Chủ nghĩa trừu tượng của Picaso tại New York, Mỹ, vào tháng 1.1931 là cuộc trưng bày 37 bức tranh của ông tại phòng tranh Reid-Lefevre ở London. Đây được coi là một trong những sự kiện văn hóa quan trọng của thủ đô nước Anh lúc bấy giờ.

Cuộc sống mở trong nghệ thuật của Picasso hoàn toàn đối lập với sự gò bó, trong khuôn khổ gia đình mà Olga cố tình tạo nên. Một mặt, Picasso mong ước giữ gìn hạnh phúc gia đình, mặt khác ông rất cần tự do để sáng tạo và ông tự dần giải phóng mình khỏi Olga. Nhưng nghịch lý ở chỗ, nếu thiếu phụ nữ, danh họa lại không có đủ cảm hứng để sáng tác. Có lần, ông thổ lộ: “Tôi sợ mình sẽ chết mà không kịp yêu một ai”. Và Marie-Therese Walter như một lối thoát cho ông.



Bức Khỏa thân - Những chiếc lá xanh và bầu ngực

Vào ngày 8.1.1927, Picasso ghé vào phòng tranh Lafayette ở Paris. Nơi đây, ông gặp cô gái 17 tuổi tóc bạch kim là Marie-Therese Walter. Ở tuổi trăng rằm, vẻ đẹp đầy đặn, nét ngài nở nang của Marie khiến danh họa mê mẩn. Cuộc gặp gỡ tình cờ này bắt đầu một giai đoạn quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật của Picasso. Chỉ sau 3 lần đến xưởng vẽ của Picasso làm người mẫu, Marie đã “chết” và ngã vào vòng tay người họa sĩ tràn đầy sinh lực.

Cần nhắc lại rằng, trong khi Marie mới 17 tuổi thì Picasso đã bước sang tuổi 47 và vẫn chung sống với Olga Khokhlova cùng đứa con trai Paulo đã 5 tuổi. Do Marie đang ở tuổi vị thành niên, nên mối tình của Picasso với cô buộc phải giữ bí mật. Tuy thế, sự hiện diện của cô gái trẻ này trong các tác phẩm của Picasso lại rất rõ nét.

Cùng với hình tượng Marie-Therese trong “giai đoạn siêu thực”, là sự thể hiện “tính nữ” - sự dịu dàng, trong sáng tạo của Picasso. Thay thế cho mạch cảm xúc căng cứng, đứt gãy (bức Điệu múa - 1925) là những đường nét tròn trịa hoàn chỉnh. Thân hình phụ nữ trong tranh Picasso giờ đây vừa rắn rỏi lại vừa dịu dàng. Nét vẽ vốn dĩ tràn đầy sinh khí lại nhịp nhàng, uyển chuyển hơn bao giờ hết. Các đặc trưng này thể hiện trong các bức tranh mà Picasso vẽ vào năm 1932 như: Giấc mơ, Người phụ nữ và hoa, Khỏa thân trên ghế, Gương, Cô gái trước gương...



Chân dung Marie-Therese (1932) - Ảnh: Wikipedia

Phần lớn các bức tranh Picasso vẽ Marie đều bị chi phối bởi sắc màu nhẹ nhàng khởi nguồn từ cơn say tròng trành của nhục dục. Điều này phản ánh quan hệ của Picasso với Marie-Therese, là mối quan hệ cộng sinh. Cô gái trẻ trung này là người tình tuyệt vời hay chính xác hơn là “trò chơi” của danh họa.

Tuy vậy, Marie vẫn chấp nhận đóng vai phụ trong cuộc sống của danh họa. Có lẽ vì thế mà tuy tính khí ngang tàng nhưng Picasso rất chiều chuộng cô gái trẻ. Vào năm 1930, ông mua tòa lâu đài cổ Boisgeloup ở Normandy, Pháp, làm nơi để vẽ tranh và là nơi ở của Marie. Tại đây, danh họa đã sáng tạo nhiều bức tượng người tình. Một trong số đó là Người phụ nữ và bình hoa, hiện được đặt cạnh mộ của Picasso.

Sống bên cô gái trẻ trung Marie, Picasso có nhiều cảm hứng để vẽ tranh. Thời kỳ này ông vẽ khá nhiều và đạt đến một đẳng cấp mới trong nghệ thuật. Bức Khỏa thân - Những chiếc lá xanh và bầu ngực (Nude, Green Leaves and Bust) mà Picasso vẽ Marie vào năm 1932 đã đạt giá 106,5 triệu USD do nhà đấu giá Christie, New York, tiến hành vào tháng 3.2010. Khi đó tác phẩm này lập kỷ lục thế giới về số tiền trả cho một bức tranh nghệ thuật. Vào tháng 3.2011, bức tranh này lần đầu tiên được trưng bày tại Tate Modern, London và được coi là sự kiện văn hóa lớn tại Anh.

Vào năm 1935, Marie sinh cho Picasso một đứa con gái, là Maya. Sự xuất hiện của con gái yêu cũng gây cảm hứng cho Picasso. Ông vẽ nhiều tranh về con gái, trong đó bức Maya với búp bê, phản ánh tâm trạng vui vẻ của danh họa. Cũng trong năm 1935, Olga Khokhlova biết tin Picasso có con gái, cô chia tay Picasso và mang đứa con trai đi theo. Việc chia tay với vợ chính thức ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp nghệ thuật của danh họa. Ông cảm thấy mất thăng bằng và ít vẽ hơn. Trong các tác phẩm của Picasso không còn thấy các sắc màu vui tươi, lãng mạn.

Bước qua năm 1936, trong cuộc sống của Picasso lại xuất hiện thêm một người tình khác. Đó là Dora Maar. Có thể khi đó ông đã không còn cảm thấy cần Marie nữa. Hay đúng hơn là, sau khi sinh con người đẹp này cũng phạm “sai lầm” khi đòi hỏi Picasso phải tổ chức đám cưới - điều mà dường như ông không bao giờ muốn.

Marie không thể tha thứ cho Picasso về chuyện phụ tình. Tuy thế suốt cả đời mình, Marie vẫn hy vọng một ngày nào đó Picasso sẽ cưới cô, nhưng tiếc thay điều này đã không diễn ra. Hy vọng càng nhiều thất vọng càng lớn. Vào ngày 20.10.1977, 4 năm sau khi Picasso qua đời, Marie-Therese đã treo cổ tự tử tại thành phố nghỉ dưỡng Juan Les Pins, miền nam nước Pháp.


Còn sống là còn yêu
“Nếu như tôi sống cùng cô gái trẻ, điều này giúp tôi trẻ mãi...” - Picasso rất thích nhắc lại câu nói này. Chẳng thế mà ông yêu người tình thứ 6 - Francoise Gilot - trẻ hơn ông 40 tuổi và là người duy nhất đã bỏ rơi ông...

Niềm vui mang tên Francoise Gilot

“Tôi làm quen với Picasso vào tháng 5.1943, thời phát xít Đức xâm chiếm Pháp. Khi đó tôi mới 21 tuổi và biết rằng hội họa đang vẫy gọi tôi”, Francoise viết trong cuốn Cuộc sống của tôi với Picasso. Lúc đó danh họa đã 62 tuổi. Có tính cách độc lập nên quan hệ giữa Francoise Gilot với Picasso tiến triển chậm, không chịu áp lực vốn có của danh họa. Điều này có vẻ làm cho Picasso hứng thú. Suốt một thời gian dài hai người gọi và xưng hô với nhau khá lịch thiệp, “anh” và “chị”. Sau này Francoise viết trong hồi ký của mình: “Nghệ thuật liên kết chúng tôi. Sớm hay muộn rồi tôi cũng yêu các bức tranh của ông và sau đó yêu chính ông”. Sau 6 tháng quen biết, người đẹp này mới trở thành người tình của Picasso.



Jacqueline với hoa (1954) - Ảnh: Wikipedia

Khác với những người tình khác, Picasso sử dụng thể loại tranh thạch bản để khắc họa hàng loạt chân dung của Francoise trong các năm 1945, 1946. Gương mặt người đẹp trong tranh có đôi mắt to tròn, mở rộng nhưng không cân xứng. Miệng nhỏ với những nét vẽ mạnh bạo, đơn giản. Theo thời gian các bức tranh của ông ngày càng dịu dàng, đậm chất trữ tình. Trong quá trình sáng tạo, danh họa còn biến thân hình của người thành thân cây có lá và trái cây treo lủng lẳng - bức Người phụ nữ - hoa (1946).

Picasso và Francoise có thời gian khá lâu sống ở miền duyên hải. Thời gian này dường như ông có nhiều niềm vui. Trên các bức tranh thạch bản hay vẽ bằng bút chì, gương mặt người phụ nữ dường như tỏa sáng, còn mái tóc như những tia nắng rực rỡ. Bức tranh có khổ lớn thời kỳ này - Niềm vui cuộc sống, mặt trời tỏa sáng xen lẫn hương vị của biển. Trung tâm bức tranh là vòng người nhảy múa. Ở đó có cô gái có eo nhỏ, ngực cao và mái tóc xù. Đó chính là Francoise.



Bức Người phụ nữ - hoa (1946) - Ảnh: Wikipedia

Người tình thứ sáu này sinh cho danh họa hai người con là Claude (con trai) và con gái Paloma. Picasso thường vẽ hai đứa con, xây dựng bố cục tác phẩm là một không khí gia đình ấm cúng.

Hạnh phúc, nhưng Picasso không có khả năng yêu lâu dài một người phụ nữ. Một lần nọ, Francoise bắt gặp ông đang ngủ với người tình cũ là Dora Maar. Sau này khi đã trấn tĩnh lại, Francoise cảm thấy ngạc nhiên khi lần đầu tiên cô nhìn nhận lại tuổi tác của Picasso. Đó là một ông già với tính khí của một chàng trai trăng hoa. Cô quyết định ra đi trước khi mình bị ruồng rẫy như những người tình trước. Picasso không thể níu giữ Francoise và ông cũng không gắng thực hiện điều đó.

Học hỏi nhiều ở danh họa, Francoise cũng vẽ tranh như một họa sĩ, tạo được phong cách riêng và trở nên nổi tiếng. Cô nghiên cứu triết học, văn học xuất bản hồi ký vào năm 1964, bán được hơn triệu bản. Sau này Francoise còn hai lần lấy chồng, đều là những người nổi tiếng. Hai người con, Claude và Paloma kế thừa tài sản lớn của bố. Claude là họa sĩ nổi tiếng, còn Paloma là nhà thiết kế.

Người vợ cuối cùng

Khi đã ở tuổi 79, cuộc sống của Picasso vẫn không thể thiếu bóng dáng người phụ nữ - nguồn hứng khởi kích thích sáng tạo nghệ thuật của ông. Đó cũng là lý do để ông cưới Jacqueline Roque, 27 tuổi, làm người vợ chính thức thứ hai.

Picasso gặp Jacqueline lần đầu tiên vào năm 1953 tại xưởng vẽ Madoura Pottery, Paris, nơi cô làm việc, còn Picasso đến đó để làm đồ gốm. Cơ duyên còn đưa đẩy họ gặp nhau 2 lần nữa vào năm 1955 và 1958. Đến ngày 13.3.1961, hai người tổ chức một đám cưới rất giản dị. Jacqueline trở thành người tình cuối cùng sống cùng danh họa cho đến khi ông trút hơi thở cuối cùng.

Với Jacqueline, Picasso được coi như thượng đế. Cô gọi danh họa là “Ngài của tôi”. Khi hai đứa con Claude và Paloma đến thăm bố, Jacqueline nói với chúng: “Làm sao mà các cháu có thể nhìn vào cửa sổ ngôi nhà. Trong đó có mặt trời và thượng đế của tôi?”. Đến nỗi danh họa phải nói với cô: “Em tự nghĩ cho mình một thứ tôn giáo”. Danh họa vẽ chân dung người vợ này nhiều hơn bất cứ người tình nào của ông. Đơn giản là ông sống với Jacqueline hơn 20 năm, trong đó có 17 năm cô là người duy nhất làm người mẫu để ông vẽ.

Trong các bức chân dung người tình cuối cùng, Picasso sử dụng các kỹ thuật, phong cách khác nhau. Nhưng hình ảnh người đẹp luôn là ánh nhìn gần gũi, đầy suy tư của đôi mắt hình trái hạnh đào, còn sống mũi thẳng liền với trán gợi nhớ đến hình nhân sư Ai Cập. Tác phẩm Jacqueline với hoa (1954) cho thấy rõ điều này...

Vào ngày 8.4.1973, danh họa ra đi ở tuổi 92. Jacqueline tin rằng, ngoài mình sẽ không có ai ý thức được sự mất mát lớn lao này. Thậm chí, người vợ cuối cùng của danh họa còn không cho phép những người tình cũ và con của Picasso đến viếng ông. Những người xung quanh có cảm giác Jacqueline không chịu nổi sự mất mát đó và sẽ chết!

Nhưng Jacqueline lại cho rằng, người chết sẽ sống trong thế giới khác tốt hơn, nơi không có nỗi buồn và nước mắt. Bà trở thành người gìn giữ gia sản to lớn của Picasso để lại. Thế nhưng vào ngày 15.10.1986, trước ngày khai mạc một cuộc triển lãm tranh của Picasso ở Madrid, Tây ban Nha, Jacqueline đã tự tử bằng súng ngắn.

Di sản mà Picasso để lại được Chính phủ Pháp định giá vào khoảng 260 triệu USD. Trong đó có hơn 50 nghìn tác phẩm bao gồm 1.885 bức tranh, 1.228 tượng, 2.800 đồ gốm, gần 12.000 bức phác thảo, 11.000 bức thảm treo tường và nhiều đồ vật khác.

Hoàng Hoài Sơn (tổng hợp)
------------------
Nguồn: TNO.

Một số tác phẩm của danh họa Picasso được sưu tầm từ Internet







Cô gái Barefoot. Năm 1895



Lễ rước đầu tiên. 1895/96



Chân dung Mẹ của Artist.. 1896.



Chân dung tự họa. 1896.



Khoa học và từ thiện. 1897.



Matador Luis Miguel Dominguin. 1897.



Lola,. Chị của Picasso. 1899.



Một cặp vợ chồng Tây Ban Nha trước 1900.



Harlequin nhìn nghiêng. 1901



Người phụ nữ với Chignon.. Năm 1901.



Nude, tôi yêu Eva. 1912



Harlequin với Guitar . Năm 1918.



Nông dân đang ngủ. Năm 1919.



Ba vũ công. 1919-1920.



Juan-les-Pins. 1920.
Digg Google Bookmarks reddit Mixx StumbleUpon Technorati Yahoo! Buzz DesignFloat Delicious BlinkList Furl

0 nhận xét: on "Loạt bài: Những thiên thần của danh họa Picasso"

Đăng nhận xét