Thứ Hai, 30 tháng 4, 2012

Nhân Điện: BÀN TAY ÁNH SÁNG 2


Nhân Điện: BÀN TAY ÁNH SÁNG 2
Barbara Brennan
Dịch giả : Lê Trọng Bổng
Lời giới thiệu
Nguyên tác: Hands of Light - A Guide to Healing Through the Human Energy Field

Sách hướng dẫn chữa trị qua trường năng lượng của con người.

Chương 17

TRỰC TIẾP ĐÁO ĐẠT THÔNG TIN 
Việc đáo đạt thông tin ngoài các phương thức thông thường có thể giúp rất nhiều cho chữa trị. Có thể nhận phần lớn các loại thông tin cần thiết bằng phương thức này. Nói "trực tiếp đáo đạt thông tin" là nói đúng ý nghĩa mà nó bao hàm. Bạn trực tiếp liên hệ và nhận được thông tin mà bạn cần. Quá trình này được mệnh danh là tri giác cao cấp, thiên lý nhĩ, minh triết, siêu cảm giác hoặc đọc ý nghĩ. Ta hãy nhìn rõ hơn xem thực chất quá trình đó là gì.
Thông tin đến với bạn qua năm giác quan, mang tên gọi truyền thống: Thị giác, xúc giác, vị giác, thính giác và khứu giác. Phần đông chúng ta đã phát triển một số trong các phương tiện này để thu được thông tin nhiều hơn người khác. Các quá trình bên trong của tư duy, xúc cảm và tồn tại của bạn có nhiều điều liên quan với những cách thức đáo đạt thông tin của bạn, như hai nhà lập trình về ngôn ngữ học thần kinh cho máy tính Richard Bandler và John Grinder đã viết trong cuốn sách của họ Cóc thành Hoàng Tử. Trải nghiệm nội tâm của bạn, chạy qua một số kênh quen thuộc. Có thể là bạn hoạt động chủ yếu bằng cách kết hợp các quá trình thị giác với các quá trình giác quan tâm động, hoặc các quá trình thính giác với các quá trình giác quan tâm động, hoặc các quá trình thị giác với các quá trình thính giác. Có thể có bất cứ kết hợp nào. Đối với quá trình nội tâm khác nhau thì bạn sử dụng các kết hợp khác nhau. Có thể bạn biết hoặc không biết là bạn nghĩ chủ yếu đến hình ảnh, âm thanh hay xúc cảm. Tôi khuyên bạn khám phá, bởi lẽ phương thức mà bạn đáo đạt thông tin qua các giác quan thông thường là phương thức mà tôi muốn khuyên bạn bắt đầu học để phát triển tri giác cao cấp của mình.
Chẳng hạn, nếu người ta đưa cho tôi một tên người thì trước hết tôi nghe gọi cái tên đó, rồi bằng giác quan tâm động tôi tìm theo mọi hướng cho đến khi tôi cảm nhận mối liên kết được hình thành với người đó. Từ điểm ấy tôi nhìn thấy các bức tranh và nghe được thông tin về người mang tên đó. Vài năm trước đây tôi không thể làm được điều này.
Giác quan cao cấp đầu tiên mà tôi phát triển là giác quan tâm động. Tôi bỏ ra nhiều giờ tiến hành tâm lý liệu pháp, đụng chạm đến nhiều người và trường năng lượng của họ. Sau đó, từ chỗ nhận thức được, tôi "nhìn thấy" được. Tôi bắt đầu nhìn thấy những vật có liên quan đến điều mà tôi cảm nhận. Sau rất nhiều lần thực hành, tôi bắt đầu nghe được thông tin. Có thể học hỏi được từng phương thức đáo đạt đó qua luyện tập và thiền định. Bằng cách đi vào một trạng thái tĩnh lặng và tập trung vào một trong số các giác quan của bạn, bạn sẽ nâng cao được nó. Muốn vậy chỉ có thực hành. Phần khó nhất là học được cách đi vào trạng thái tĩnh lặng và tập trung liên tục vào chủ định của bạn.
Những bài tập nâng cao tri giác
Để nâng cao giác quan tâm động của bạn.
Xin hãy ngồi vào một tư thế thiền định thoải mái và hãy tập trung cảm nhận bên trong thân thể bạn. Hãy tập trung vào các bộ phận của thân thể và các cơ quan. Nếu thấy có lợi thì hãy tiếp cận bộ phận mà bạn đang tập trung chú ý. Nếu bạn có thiên hướng thị giác, có thể bạn sẽ muốn nhìn vào bộ phận đó. Nếu có thiên hướng thính giác, có thể bạn sẽ muốn lắng nghe tiếng thở hay tiếng tim để giúp cho mình tập trung hơn.
Bấy giờ hãy làm như vậy đối với khoảng không gian xung quanh bạn. Mắt nhắm lại, bạn hãy ngồi và cảm nhận căn phòng. Hãy tập trung vào, hãy vươn tới hoặc tỏa lan tới các vị trí khác nhau trong căn phòng và các đồ vật khác. Nếu thấy cần, bạn mở mắt ra và sờ vào các đồ vật trong phòng trước khi quay trở lại ngồi và cảm nhận. Sau đó, bạn nhờ một người bịt mắt cho bạn và dẫn bạn vào một căn phòng lạ. Hãy ngồi và cảm nhận khoảng không gian bằng giác quan tâm động giống như cung cách mà bạn hòa đồng vào trong thân thể mình. Bạn đã thấy được gì về căn phòng? Hãy bỏ khăn bịt mắt ra và kiểm tra. Bạn hãy làm như vậy với nhiều người, nhiều động vật và cây cối.
Để nâng cao thị giác của bạn, hãy ngồi thiền định và trong trạng thái nhắm mắt, hãy nhìn vào bên trong thân thể mình. Nếu gặp rắc rối gì sẽ được giác quan hỗ trợ. Tiếp cận bộ phận hoặc lắng nghe các quá trình nội tâm cho đến khi bạn có được một bức tranh về điều này. Sau đó tiến hành như vậy đối với căn phòng. Trước tiên mở mắt ra quan sát các chi tiết trong phòng rồi nhắm mắt lại mà tạo ra trong óc bức tranh về căn phòng. Bấy giờ, hãy đi tới một căn phòng lạ và bắt đầu làm điều tương tự trong trạng thái nhắm mắt. Bạn có thể "nhìn thấy" gì?
Hãy nhớ rằng chúng ta đang nói về cảm nhận thị giác. Điều này khác với quá trình mường tượng là một hành động sáng tạo trong đó bạn mường tượng cái mà bạn muốn tạo ra.
Để nâng cao thính giác của bạn, hãy ngồi thiền định. Hãy lắng nghe bên trong thân thể mình. Một lần nữa, nếu cần, bạn đặt tay lên bộ phận mà bạn đang lắng nghe và hãy cảm nhận nó hoặc nhìn vào nó. Rồi bạn đi ra ngoài và lắng nghe mọi âm thanh xung quanh. Nếu bạn thực hiện việc này trong rừng thì bạn sẽ bắt đầu nghe được tính đồng bộ của các âm thanh. Chúng cùng nhau tạo nên một bản nhạc giao hưởng. Hãy lắng nghe chăm chú hơn. Bạn có thể nghe được gì nào? Những âm thanh không tồn tại? Hãy lắng nghe kỹ càng, một ngày nào đó chúng sẽ có ý nghĩa đối với bạn. Itzhak Bentov trong cuốn sách của mình Lần Theo Con Lắc Hoang Dã đã viết về một âm thanh the thé mà nhiều người ngồi thiền định nghe được. Nó nằm bên trên tầm bình thường của thính giác. Tác giả cuốn sách đã có thể đo được tần số của âm thanh này.
Khi tôi phát triển các khả năng "nhìn thấy" của mình, tôi phát hiện ra rằng những bức tranh đến với tôi dưới hai dạng. Một dạng có tính biểu tượng, dạng kia là nguyên bản. Trường hợp bức tranh có tính biểu tượng, ta chỉ đơn giản thấy một hình ảnh nào đó có ý nghĩa về con người mà ta đang "đọc". Chẳng hạn, ta có thể thấy một tinh vân cuộn xoáy trên bầu trời hay một chiếc bánh sô cô la lớn. Trong trường họp bức tranh là nguyên bản, ta thấy các bức tranh về sự kiện hoặc đồ vật. Ta có thể chứng kiến một trải nghiệm trong quá khứ của bệnh nhân. Trong cả hai trường hợp hình ảnh biểu tượng và "đọc" sự kiện thì thấy chứa giữ vị trí của người chứng kiến. Nghĩa là thầy chữa đi vào cơ cấu thời gian đó à chứng kiến các sự kiện như chúng đã xảy ra. Điều tương tự cũng có thật trong trường hợp hình ảnh biểu tượng. Thầy chữa chờ cho hình ảnh hiện ra và mô tả nó đúng như nó biểu lộ. Tôi gọi việc này là dẫn kênh tiếp nhận. Điều vô cùng quan trọng là hình ảnh không được thầy chữa hiểu thấu hoặc bị thầy chữa làm nhiễu loạn khi nó biểu hiện. Ý nghĩa của hình ảnh đối với thầy chữa và đối với bệnh nhân có thể khác nhau. Ví dụ, nếu bạn thấy một bức tranh biểu tượng, thấy cảnh một chiếc xe ca màu xanh chạy xuống đường, thì bạn đừng nói ngay "Ô, cái này có ý nghĩa gì nhỉ?". Bạn phải theo dõi chiếc xe chạy xuống đường và để cho cảnh này biểu hiện ra trước mặt bạn. Trong quá trình đó, bạn sẽ tuần tự thu thập thông tin và dần dà dựng nên được một bức tranh có thể hiểu được. Có thể là bạn không biết bức tranh đó có ý nghĩa biểu tượng gì hoặc nó là nguyên bản gì (tức là điều gì đó đang xảy ra hoặc có thể xảy ra) cho tới mãi về sau. Nhận thông tin theo cách này là đáng tin cậy. Bạn để ra chừng ba mươi phút đến một giờ để tạo dựng bức tranh thành một điều gì đó có thể hiểu được.
Mặt khác, một số nhà thấu thị sử dụng các biểu tượng riêng của mình và đọc bằng cách lý giải chúng. Việc này chỉ có hiệu lực khi thực hành nhiều, bởi vì trước tiên nhà thấu thị phải tạo được cho mình một bộ biểu tượng rõ ràng qua đó có thể thu nhận thông tin.
Trong một loại khác về hình ảnh nguyên bản, thầy chữa nhìn thấy một bức tranh về một cơ quan bên trong của bệnh nhân. Bức tranh này hoặc hiện ra trên màn hình trong tâm trí thầy chữa, cái mà tôi gọi là màn hình tâm trí, hoặc hiện ra khu trú bên trong thân thể bệnh nhân, như thể thầy chữa có thể nhìn qua các lớp của thân thể vào tận cơ quan giống như một máy X quang. Loại nhìn thấy này, tôi đã mệnh danh nó là thấu thị. Nó là một công cụ rất có hiệu lực giúp ta mô tả bệnh tật. Với tầm nhìn thấu thị, bạn sử dụng lối đáo đạt trực tiếp chủ động. Điều đó có nghĩa là bạn tìm kiếm một số thông tin đặc hiệu mà bạn muốn đạt tới. Ví dụ, bằng thấu thị, tôi có thể nhìn vào bất cứ nơi nào trên thân thể. Tôi có thể quyết định nhìn vào lúc nào, ở độ sâu bao nhiêu, ở mức nào của hào quang và với mức dung giải nào hoặc kích thước từ vĩ mô đến vi mô.
Cảm nhận từ xa 
Tôi đã thấy rằng trực tiếp đáo đạt thông tin có hiệu lực đối với người trong cùng căn phòng với mình hoặc ở xa. Việc đọc hào quang từ xa ở cự ly lớn nhất của tôi được tiến hành trong cuộc trao đổi bằng điện thoại giữa New York City và Italia. Về điểm này, theo trải nghiệm của tôi, việc đọc hào quang từ xa hiện ra khá chính xác, nhưng việc chữa trị không công hiệu bằng khi tôi ngồi cùng phòng với bệnh nhân.
Trực tiếp đáo đạt thông tin và tiên tri
Nhiều lần người ta đặt ra với hướng đạo của tôi những câu hỏi về tương lai. Hướng đạo của tôi luôn trả lời rằng có thể nói về thực tại có khả năng xảy ra trong tương lai, nhưng đó không phải là những thực tại tuyệt đối sẽ phải xảy ra, bởi lẽ mỗi con người đều có tự do ý chí để sáng tạo ra cái họ muốn có trong tương lai. Hướng đạo của tôi luôn nói rằng Người sẽ không đoán trước chuyện tương lai, nhưng rồi nhiều lần Người lại tiến lên và trả lời câu hỏi được đặt ra. Phần lớn những chuyện được tiên đoán trong tương kai này xảy ra sau đó khá lâu. Chẳng hạn, Heyoan nói với một bà rằng bà ta có thể sẽ quan tâm nhiều đến chuyện dính líu với Liên Hợp Quốc. Về sau bà này nhận được hai giấy mời làm cho bà ta trở thành có quan hệ với tổ chức quốc tế này. Người bảo một ông rằng, ông ta có thể có quan hệ với ngoại giao đoàn tại mêhicô và sẽ tiếp cận việc này trong thời gian đi nghỉ ở Bồ Đào Nha. Chuyện xảy ra đúng như thế. Một số trường hợp khác được Người nhắc là phải hoàn tất một số việc vì có thể sẽ phải di chuyển. Hiện giờ họ di chuyển thật rồi, dù rằng trước đó họ không mảy may nghĩ đến chuyện đó. Về phần tôi thì vào lúc tôi bắt đầu một buổi chữa đặc biệt, Người bảo tôi là bệnh nhân đó bị ung thư và sẽ chết. Và chị này không qua được. Khi chị đến chữa chỗ tôi, không ai nghi ngờ là chị bị ung thư cả, cho đến khi chụp CAT scanner bốn lần trong khoảng bốn tháng. Các kết quả chụp CAT scanner cho thấy hình thù, kích thước và vị trí của ung thư giống hệt như khi tôi nhìn thấy bằng thấu thị. Dĩ nhiên tôi rất lo ngại khi nhận được thông tin đó. Tôi không lộ ra cho bệnh nhân mà chỉ khuyên chị ta nên đi khám bác sĩ ngay. Không may tôi đã không tiếp cận được bác sĩ. Những trải nghiệm như thế làm ta lưu ý về trách nhiệm của thầy chữa; vấn đề sẽ được luận bàn sau này trong cuốn sách.
Phương pháp đo đạc tốt nhất cho quá trình trực tiếp đáo đạt thông tin là công trình nghiên cứu về thấu thị do Russell Targ và Harold Puthoff thuộc Viện nghiên cứu Stanford thực hiện. Họ thấy một nhà thấu thị ngồi ở tầng hầm của phòng thí nghiệm ở Stanford có thể vẽ khá chính xác bản đồ về vị trí của một nhóm người được chọn làm cọc tiêu đã được phái đến một số địa điểm. Targ và Puthoff bắt đầu tiến hành thí nghiệm với các nhà tâm lý học lừng danh và thấy rằng những người mà họ chọn, kể cả người hoài nghi nhất, đều không một ai làm được điều vừa nói. Tôi tin rằng điều tôi đang làm cũng rất giống như vậy và tôi chỉ áp dụng nó vào chữa trị.
Tóm lại, tôi tin rằng phần đông chúng ta có thể sử dụng một vài phương thức trực tiếp đáo đạt thông tin trong cuộc sống thường ngày của mình. Thông tin nào đã giúp bạn điều hành nghề nghiệp tốt hơn? Hẳn là bạn có thể cảm nhận thông tin đó qua tri giác cao cấp của chính mình. Tất cả điều đó là một cách khác để nói rằng con người có nhiều phương thức nhận thông tin và hướng dẫn nếu bản thân có yêu cầu và khai mở để đón nhận.
Trực tiếp đáo đạt thông tin có nhiều quan hệ mật thiết với tương lai. Nếu loài người học cách đáo đạt thông tin, coi như đó là sự gợi ý về tính hiển nhiên của thực tại thì điều này sẽ tác động đến toàn bộ hệ thống giáo dục và tất nhiên đến cả xã hội. Người ta đến trường không chỉ để học cách lập luận suy diễn và quy nạp, thu nhập kiến thức và nâng cao trí nhớ, mà sẽ còn đến trường để học cách tiếp cận bất cứ điều gì mà ta muốn biết ngay tức khắc. Thay vì mất hàng giờ để ghi nhớ mọi việc, người ta sẽ học cách đáo đạt thông tin tàng trữ trong "bộ nhớ" của trường năng lượng vũ trụ. Trong thuật ngữ bí truyền, sự tàng trữ thông tin này được mệnh danh là văn thư akashie. Văn thư này là dấu ấn năng lượng được xếp trong toàn đồ vũ trụ của mọi thứ đã từng xảy ra hoặc đã từng biết đến. Não hoạt động theo cách này thì thông tin không tàng trữ trong ký ức, nó chỉ đơn giản là được đáo đạt mà thôi. Não hoạt động theo cách này thì nhớ  lại có nghĩa là điều chỉnh lần nữa cho phù hợp với toàn đồ vũ trụ và đọc lại thông tin, chứ không phải là lục soát ký ức để tìm lại thông tin,.
Do chỗ thông tin này tồn tại bên ngoài giới hạn của thời gian tuyến tính, như đã nói trong Chương 3, hẳn là con người ở mức độ nào đó có khả năng đọc được tương lai, như Nostradamus đã tiên đoán sự ngoi lên của một tên độc tài ở châu Âu tên là Hitler nhiều thế kỷ trước khi Hitler lên cầm quyền.
Điểm lai Chương 17
1. Những phương thức chính trực tiếp đáo đạt thông tin là gì?
2. Hãy mô tả cách thức nâng cao thị giác, thính giác và giác quan tâm động của bạn.
3. Nếu một người thuộc dạng giác quan tâm động thì loại thiền định nào và loại trực tiếp đáo đạt thông tin nào là tốt nhất để người đó tập trung vào?
4. Điểm khác biệt giữa chủ động nhìn vào hào quang và cảm nhận nó bằng biểu tượng?
5. Trực tiếp đáo đạt thông tin khi được tiến hành từ xa thì có hiệu lực không? Xa bao nhiêu? Hiện tượng này có thể giải nghĩa như thế nào bằng Vật lý học?
6. Điểm khác biệt giữa chủ động dẫn kênh tiếp nhận và trực tiếp đáo đạt thông tin?
Để làm động não
7. Bạn chủ yếu thuộc dạng thị giác, thính giác hay giác quan tâm động? 


Chương 18

THẤU THỊ 
Trải nghiệm đầu tiên của tôi về thấu thị diễn ra một buổi sáng sớm khi tôi đang nằm trên giường quan sát sấu trúc hay hay của cơ và xương phía sau cổ của chồng tôi trong khi anh nằm nghiêng và đang ngủ cạnh tôi. Tôi nghĩ rằng cung cách mà các bắp thịt liên kết với các đốt sống thật đáng chú ý. Bỗng nhiên tôi nhận thức được việc tôi đang làm và vội vàng thôi không nhìn như vậy nữa. Tôi không muốn "quay lại" với mức độ thực tại đó trong một thời gian, cho rằng mình đã "hư cấu" ra mọi cái đó. Dĩ nhiên cuối cùng điều đó đã trở lại. Tôi bắt đầu "nhìn thấy" bên trong các bệnh nhân của mình. Ban đầu việc này làm tôi lúng túng, song sức thấu thị của tôi vẫn còn đó và tôi cứ tiến hành. Thấu thị liên quan đến thông tin khác mà tôi có thể thu được về các bệnh nhân hoặc từ họ hoặc từ các bác sĩ của họ.
Thấu thị là cách nhìn của con người thay cho máy X quang hoặc máy cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) và cũng tinh vi như thế. Thấu thị bao gồm khả năng nhìn vào thân thể ở bất cứ độ sâu nào và với mức dung giải nào (trong một dãy nào đó) mà người ta muốn nhận biết. Nó là một phương thức mới để cảm nhận mọi vật. Nếu tôi muốn nhìn thấy một cơ quan, tôi tập trung vào nó. Nếu tôi muốn nhìn thấy nội dung bên trong cơ quan đó hoặc một phần riêng của nó, tôi tập trung vào đấy. Nếu tôi muốn nhìn thấy một vi sinh vật đang xâm phạm thân thể, tôi tập trung vào nó. Tôi nhận được những bức tranh của các vật này trông giống như những bức tranh thông thường.
Chẳng hạn, một buồng gan khỏe mạnh có màu đỏ thẳm, cũng giống hệt như khi nhìn bằng mắt thường. Nếu gan đã từng bị hoặc đang bị hoàng đản thì nó có màu nâu vàng bệnh hoạn. Nếu bệnh nhân đã được hoặc đang được chữa bằng hóa trị liệu thì gan thường có màu nâu ngả lục. Các vi sinh vật được nhìn thấy như thể chúng nằm dưới kính hiển vi.
Các trải nghiệm về thấu thị của tôi lúc đầu xảy ra tự phát, về sau trở nên dễ điều khiển hơn. Tôi bắt đầu hiểu ra rằng để thấu thị được như vậy tôi đã phải có một trạng thái khai mở, trong đó con mắt thứ ba (luân xa 6) của tôi đã được hoạt hoá và phần còn lại của tâm trí tôi đã ở vào một trạng thái tương đối tĩnh lặng, tập trung. Về sau, tôi tìm ra những kỹ thuật đưa con người đạt tới trạng thái đó, như vậy tôi có thể nhìn vào bên trong thân thể vào thời điểm tôi lựa chọn, miễn là lúc bấy giờ tôi có thể đi vào trạng thái tâm thần và cảm xúc này. Nếu tôi mệt mỏi, có thể tôi không làm được việc ấy, một phần là do khi mệt mỏi con người rất khó tập trung và làm tĩnh lặng tâm trí. Khi ta mệt mỏi cũng rất khó nâng cao tốc độ rung động của bản thân. Tôi cũng phát hiện ra rằng mở mắt hay không mở mắt cũng thế thôi, không có ý nghĩa đáng kể, trừ khi lúc đó mình xen kẽ nhận thêm thông tin bổ sung thì phải mở mắt ra để cho thông tin này đi vào qua đôi mắt mở. Đôi khi thông tin bổ sung này giúp cho việc tập trung; đôi khi nó lại gây trở ngại. Chẳng hạn, đôi khi tôi dùng mắt để giúp tập trung tâm trí vào nơi mình đang nhìn. Lúc khác tôi lại nhắm mắt lại để cố gắng không cho thông tin khác đang đi vào có thể làm tôi mất tập trung.

Các ví dụ về thấu thị
Một ví dụ về thấu thị được trình bày ở Hình 18-1. Phía trên bên trái cho thấy mặt trước bên ngoài của hào quang, phía trên bên phải cho thấy hình ảnh bên trong và minh họa phía dưới cho thấy mặt sau bên ngoài. Trường hợp này là một người bạn gái của tôi ngã trên băng bị thương ở vai. Khi tôi thao tác trên người chị, tôi có thể thấy "đám xuất huyết hào quang" từ mặt trước của vai, nơi mà chị bị mất năng lượng. Các vạch năng lượng ở mặt sau dọc theo cơ thang trở nên rối rắm và cần được uốn nắn lại. Tôi úp bàn tay phải của mình lên chỗ xuất huyết để cầm máu và gỡ rối ở lưng. Khi tiến hành việc này, tôi thấy đầu trên của xương cánh tay bị giập vỡ, và sau đó tổn thương này được khẳng định bằng X quang. Buổi chữa "ngắn ngủi" đó (nửa giờ) đã cầm được máu và gỡ được rối, giúp rút ngắn thời gian điều trị tổn thương xương.
Một ví dụ khác, trình bày ở Hình 18-2 là một u nang buồng trứng mà tôi đánh giá là có kích thước tương tự một quả bóng tennis, đường kính 7cm. Ngày 3 tháng Giêng (Hình 18-2A) nó có màu xám ngả xanh thẫm. U nang này đã được một bác sĩ chẩn đoán nhưng bệnh viêm khung chậu, có màu đỏ thẫm trên hào quang, thì không được ông phát hiện. Ngày 15 tháng Giêng (Hình 18-2B) u nang co lại còn 4cm thì bệnh viêm khung chậu mới được bác sĩ chẩn đoán. Ngày 21 tháng Giêng (Hình 18-2C) u nang còn 2cm nhưng màu đen hơn và cho thấy một hình xoắn ốc rất lạ dính vào u. Bệnh nhân theo một chế độ ăn kiêng chữa bệnh thanh toán được vấn đề (Lúc này tôi không chữa trị mà chỉ quan sát sự tiến triển). Ngày 29 tháng Giêng (Hình 18-2D) u lớn lên tới 3cm, kích thước của một đồng 25 xu, vào lúc bắt đầu kinh nguyệt (hiện tượng này thường xảy ra đối với các u nang). Ngày 6 tháng Hai (Hình 18-2E) u nhỏ lại còn 1cm, ngày 3 tháng Ba (Hình 18-2F) u biến mất hoàn toàn, với nhiều năng lượng khỏe khoắn trước kỳ kinh. Tất cả các quan sát này phù hợp về kích thước với những quan sát khung chậu do một bác sĩ tiến hành.
Bởi vì màu đen của u nang xuất hiện trên hào quang ngày  21 tháng Giêng, cho nên cả bác sĩ lẫn tôi đều khuyên bệnh nhân dùng kháng sinh. Bệnh viêm khung chậu (PID) thường kéo dài trong thời gian lâu (ở trường hợp này là 3 năm) đã được biết như là mở đầu cho sự phát triển của ung thư, vì vậy chúng tôi muốn ngăn ngừa bằng cách giải tỏa ổ nhiễm khuẩn. Bệnh nhân vẫn giữ chế độ ăn kiêng chữa bệnh suốt trong quá trình điều trị. Chị ta có thể hoàn toàn hết nhiễm khuẩn mà không cần kháng sinh, song chúng tôi không muốn điều may rủi. Theo kết quả nhìn thấu thị của tôi, phần nhiều u nang có màu đen. Ở giai đoạn sớm của bệnh, ung thư có màu xanh xám thẫm. Nếu nó tiến triển nó chuyển sang màu đen trên hào quang. Sau đó các đốm trắng hiện ra có màu đen. Khi những đốm trắng lóng lánh và bung ra như núi lửa thì ung thư đã di căn. Trong trường hợp này, u nang trở nên quá thẫm màu để chỉ ngồi chờ giải quyết vấn đề bằng chế độ kiêng khem có tác dụng tinh khiết hóa.
Hình 18-3A (trang 224) trình bày một trường hợp viêm khung chậu, nang buồng trứng và xơ buồng trứng. Như bạn có thể thấy, tri giác cao cấp phân biệt dễ dàng u nang với u xơ hiện ra trên hào quang có màu nâu ngả đỏ.
Hình 18-3B cho thấy một ví dụ về sử dụng thấu thị từ xa. Vào cuối một buổi học, một nữ sinh viên hỏi tôi có thể chữa cho một người bạn của cô ta bị hai u xơ được không. Trong khi cô sinh viên hỏi, tôi thấu thị thấy ngay vùng khung chậu của bạn cô. Tôi bèn vẽ lại hình ảnh nhìn thấy lên bảng đen. Hai tháng sau, khi bệnh nhân đến chữa chỗ tôi thì hình vẽ của tôi được khẳng định. Cái mà tôi nhìn thấy đã được chẩn đoán của bác sĩ khẳng định. Cô này có hai u xơ tương đối nhỏ hiện ra có màu nâu ngả đỏ trên hào quang. U bên phải ở cao hơn và bên ngoài tử cung, còn u bên trái ở thấp hơn và một phần dính vào tử cung.
Cái mà tôi đã không thể nhìn thấy từ xa mà chỉ quan sát được trong khi chữa trị là ở luân xa 2 đàng trước có một chỗ rạn có thể một phần do phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng trái. Luân xa này trước khi cắt buồng trứng ắt hẳn đã bị nhiễu loạn tạo nên rối loạn chức năng là chủ yếu. Tôi chắc chắn rằng cuộc mổ đã gây thêm chấn thương cho luân xa này. Cộng với chấn thương do phẫu thuật, phụ nữ thường rút năng lượng của họ ra khỏi khu vự có cắt bỏ buồng trứng bởi vì họ không muốn cảm nhận nỗi đau cảm xúc do mất một buồng trứng. loại tắc nghẽn năng lượng này ức chế quá trình chữa trị tự nhiên trong khu vực đó của thân thể, chỉ tổ làm cho chấn thương cuối cùng trở nên xấu hơn.
Tiên tri bằng thấu thị
Một ví dụ về tiên tri, hoặc sự báo trước của các thầy dạy tâm linh xảy ra hôm tôi đi thăm một chị bạn. Khi còn cách cơ quan của chị ba khu nhà, tôi nghe được tiếng mách bảo rằng chị ta không có ở đấy, rằng có thể chị ta đã bị một cơn đau tim và tôi cần phải chữa cho chị. Tôi thấy cơ quan khóa cửa, đến nhà thì thấy chị trong trạng thái đau đớn, cánh tay trái áp lên người. Cả buổi sáng chị đã ở phòng cấp cứu có máy đo điện tim. Hình 18-4 chỉ rõ những gì mà tôi nhìn thấy bằng thấu thị. Có một nỗi đau cảm xúc và sợ hãi mắc lại ở họng và đám rối thái dương, có năng lượng ứ đọng trong khu vực tim, thấm vào thân thể và lúc này đi thẳng ra sau tới hậu diện mạo của luân xa tim. Đốt sống ngực thứ năm bị lệch sang trái. Đốt sống này không phối hợp với những dây thần kinh kích thích tim mà lại nằm ở rễ của luân xa tim. Tôi cũng quan sát được một điểm yếu trên động mạch chủ ngay phía trên tim. Trong khi hai chúng tôi cùng thao tác để giải tỏa năng lượng ứ đọng xung quanh tim, bạn tôi buông lỏng chỗ tắc nghẽn cảm xúc ở vùng họng và vùng đám rối thái dương bằng cách san sẻ nỗi đau cho tôi và khóc lóc. Năng lượng màu tối trở nên sáng sủa, đốt sống ngực thứ năm trở lại vị trí cũ. Bạn tôi thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Điểm yếu trên động mạch chủ vẫn còn khi tôi ra về, nhưng về sau dần dần trở nên sáng hẳn.
Thấu thị vi mô
Hai ví dụ về thấu thị vi mô được trình bày trên hình 18-5A và hình 18-5B. Hình 18-5A cho thấy các vi sinh vật hình gậy nhỏ xíu đã tràn ngập vùng vai-cánh tay của một bệnh nhân được chẩn đoán là nhiễm khuẩn tựa bệnh phong. Tôi có thể nhìn thấy những vi khuẩn này thâm nhập vùng đó, cả cơ lẫn xương. Khi tôi thao tác chữa trị thì một luồng ánh sáng màu, lúc đầu có màu tím nhạt, về sau có màu ánh bạc rất mạnh tuôn vào thân thể và chan hòa vùng nhiễm khuẩn. Ánh sáng này làm cho các vi sinh vật rung động ở tốc độ lớn. Dường như nó đánh cho chúng long ra. Sau đó dòng chảy năng lượng quay tròn và hút các vi sinh vật ra khỏi thân thể.
Trong trường hợp bệnh AMI, (bệnh bạch cầu nguyên tủy bào cấp) ở bệnh nhân Rose đã được chữa bằng hóa trị liệu, tôi có thể nhìn thấy những vật tựa như hạt giống, màu trắng, bẹt, hình thù rất lạ hiện ra đang dính dáp với các hồng cầu (hình 18-5B). Khoảng một năm trước khi chị ta đến với tôi, một số bác sĩ đã bảo là chị có thể chết trong vòng hai tuần lễ. Vào thời điểm đó, lập tức chị được điều trị tích cực và tiếp tục hóa trị liệu. Chị kể rằng khi họ bảo chị  chỉ còn sống được hai tuần nữa thôi, chị đã nhìn thấy một ánh sáng óng vàng bàng bạc trong phòng và biết rằng mình sẽ không chết. Trên nhãn của các chai thuốc mà chị được chuyền trong thời gian nằm viện, chị đều viết lên mấy chữ "Yêu thương thanh khiết". Chị không bị phản ứng phụ khi chữa hóa trị liệu. Bệnh chị thuyên giảm.
Khi chị trở thành bệnh nhân ngoại trú và tiếp tục hóa trị liệu, chị bắt đầu liên hệ với một người bạn của tôi, Pat Rodegast: Bạn tôi dẫn kênh cho chị liên lạc với một hướng đạo tên là Emmanuel. Emmanuel bảo Rose ngừng hóa trị liệu vì phương pháp này làm chị ốm yếu. Các bác sĩ bảo nếu ngừng hóa trị liệu thì chị sẽ chết rất nhanh, bởi vì các xét nghiệm máu cho thấy bệnh chị thuyên giảm chứ chưa khỏi. Đây không phải chuyện dễ thực hiện song chị quyết định ngừng hóa trị liệu. Vào thời gian này chị đến chỗ tôi, và tôi nhìn thấy những vật tựa như các hạt giống trong máu chị. trong lần chữa đầu tiên, các vật tựa như hạt giống này bị đánh long ra bằng một tia sáng lúc đầu có màu tím nhạt, về sau thì màu bạc, rồi chúng bị hút hết ra ngoài. Xét nghiệm kế đó cho thấy máu chị hoàn toàn bình thường, không còn vật lạ, đây là kết quả đầu tiên kể từ ngày chị được chẩn đoán bệnh.

Rõ ràng tôi không phải là công cụ chủ yếu trong việc chữa bệnh cho chị; vai trò của tôi là làm chỗ dựa và thanh lọc máu cho chị. Nhờ khả năng thấu thị mà tôi đã có thể cam đoan với chị rằng không có gì khác thường trong máu chị. Điều này tiếp tục được các xét nghiệm máu minh chứng, cho đến khi chúng tôi quyết định rằng chị sẽ không phải đến chỗ tôi và không cần chỗ dựa này nữa. Không dễ dàng chút nào đối với chị trong việc ủng hộ sự thật nơi bản thân mình. Trước đây chị cần chỗ dựa này bởi vì vào thời điểm đó các bác sĩ, với tất cả chân tình, đều rất sợ chị sẽ chết rất nhanh nếu như ngừng hóa trị liệu và thường xuyên nhắc chị điều này. Nói vậy không có nghĩa là phê phán các bác sĩ, họ đã làm mọi việc có thể làm được để cứu sinh mạng cho chị. Nhưng trong trường hợp này có những yếu tố khác tác động vào mà họ không hay biết. Tôi là thầy chữa, tôi khai thác được thông tin đó. Họ thì không. Đây là một ví dụ cho thấy rằng, sự hợp tác cởi mở giữa các thầy chữa tâm linh với các bác sĩ y khoa sẽ phục vụ tốt cho bệnh nhân. Chúng ta có nhiều điều có thể trao đổi với nhau để giúp cho quá trình chữa trị.
Quá trình thấu thị
Tôi có một lối giải thích tác động của cách nhìn này. Tôi đã quan sát thấy đường đi của ánh sáng vào thân thể bằng thấu thị hoặc nhìn bằng X quang của mình. Và cái mà tôi nhìn thấy là nó. Ánh sáng vừa đi vào con mắt thứ ba (tức luân 6-ND), vừa đi vào hai mắt thông thường và tuôn chảy dọc theo các dây thần kinh thị giác như trình bày ở hình 18-6. Ánh sáng này có rung động cao hơn ánh sáng nhìn thấy được và có thể đi xuyên qua da. Ánh sáng đi qua giao thoa thị giác và đi vòng tuyến yên nằm sau giao thoa thị giác. Lúc này ánh sáng đi theo hai đường. Một đường tới các thùy chẩm cho thị giác bình thường, một đường đi vào đồi não cho chức năng kiểm tra vận động nhãn cầu. Theo quan sát của tôi thì bằng một số kỹ thuật thiền định và tập thở, con người có thể làm cho tuyến yên bắt đầu rung động và bức xạ ánh sáng hào quang vàng óng (hoặc ánh sáng màu hồng nếu người đó đang yêu.


Rung động này và ánh sáng vàng óng làm tăng lượng ánh sáng phân nhánh đi vào vùng đồi não. Theo điều tôi nhìn thấy được, ánh sáng hào quang này vòng lấy bề mặt của đáy thể chai và được hướng vào bên trong tuyến tùng vốn tác động như một máy dò cho việc nhìn thấu thị. Bằng cách thở có kiểm tra, cọ không khí vào phần sau trên của họng và màn hầu nằm đúng đối diện với tuyến yên, tôi có thể kích thích tuyến yên rung động như vậy. Cách thở thiền định này cũng giúp tôi tập trung và làm tĩnh lặng tâm trí. Việc này cũng mang ánh sáng vàng óng từ nền lên phía sau cột sống của tôi và ánh sáng hồng lên trán. Hai luồng này vòng lấy nhau trong khu vực đồi não. Điều đó mang lại thêm năng lượng cho các vùng trán trung tâm và trung tâm của não. Cảm giác chủ quan của loại nhìn này là để  cho một cái gì đó (năng luợng, thông tin) đi vào vùng con mắt thứ ba của đầu. Loại nhìn thấy này cho ta khả năng chụp quét ở bất cứ độ sâu nào ta chọn, với một dãy rộng các mức dung giải, xuống tới mức tế bào, thậm chí mức virus.
Cảm giác chủ quan của tôi là mình có được một máy chụp quét scanner trong đầu. Nó khu trú ở vùng não trung tâm đàng sau con mắt thứ ba của tôi cách chừng 2 inches, nơi mà một đường thẳng từ con mắt thứ ba chạy ra sau sẽ cắt đường thẳng nối liền hai thái dương. Dường như nó là tâm của máy scanner. Từ điểm này tôi có thể nhìn về bất cứ hướng nào mình chọn mà không cần quay đầu về phía đó; tuy nhiên, nó thường giúp tôi nhìn trực tiếp vào vật mà tôi đang chụp quét.
Khi một bệnh nhân đến với tôi, tôi tiến hành chụp quét một lượt toàn bộ thân thể họ để nắm bắt khu vực cần quan tâm. Tôi bị thu hút vào những vùng thân thể cần chú ý. Sau đó tôi điều chỉnh cho khớp đúng với phần ấy và chụp quét ở mức dung giải tinh vi. Để có được kết quả chính xác, lắm lúc tôi đặt hai tay lên vùng có vấn đề. Tôi thấy làm như vậy thì nhìn vào dễ hơn.
Đôi khi tôi sử dụng phương pháp khác. Tôi chỉ việc yêu cầu nhìn một bức tranh xem vấn đề như thế nào là tôi nhận được một bức tranh tâm thần về tình hình đó.

Các bài tập để kiến lập thấu thị
1. Du hành qua thân thể
Phương thức tốt nhất để luyện tập thấu thị là qua các bài tập thư giãn sâu bao gồm cái gọi là "du hành qua thân thể".
Trước tiên, bạn hãy nằm xuống và nới lỏng mọi quần áo chật. Thở sâu và thư giãn. Thử làm như thế lần nữa. Bây giờ hãy hít sâu và làm căng toàn bộ thân thể bạn, càng căng càng tốt. Nín thở; sau đó thở ra và để cho hết căng. Làm lại lần nữa. Rồi lặp lại động tác tập căng-thở, nhưng chỉ cho mức căng bằng một nửa thôi và căng đều trên toàn bộ thân thể. Thở ra và thả lỏng. Bây giờ bạn hãy thở sâu và thư giãn trong khi thở ra. Lặp lại ba lần mà không căng thân thể. Hãy mường tượng sức căng rỉ ra khỏi thân thể, tựa như mật ong đặc trên bề mặt phía dưới bạn. Hãy cảm nhận tim bạn đập chậm lại, nhẹ nhàng, khỏe khoắn. Lúc này bạn hãy tưởng tượng mình rất tinh tế, như một chấm sáng và đi vào thân thể bạn, tới bất cứ nơi nào mà bạn chọn. Bản ngã tinh tế đó của bạn chảy vào vai trái, làm thư giãn mọi căng thẳng khi nó đi tới. Bản ngã tinh tế đó của bạn chảy xuống cánh tay trái và đi vào bàn tay trái, làm thư giãn mọi căng thẳng tại đó, rồi quày trở lên đi vào chân phải và sau đó quay lên tay phải. Toàn bộ thân thể của bạn nặng và ấm. Lúc này bạn bắt đầu thăm dò các hệ thống của thân thể bằng bản ngã tinh tế của bạn. Hãy đi vào tim bạn và hãy đi theo máu khi máu được bơm trong thân thể bạn. Hệ thống này có vẻ tốt không? Nó có cảm thấy khỏe mạnh không? Rồi bạn hãy du hành qua hai lá phổi và nhìn vào các mô của phổi. Hãy đi vào các cơ quan tiêu hóa của bạn. Hãy đi theo tiến trình của thức ăn khi nó vào trong thân thể bạn. Hãy đi từ miệng xuống thực quản mà vào trong dạ dày (bao tử) của bạn. Nó có dáng vẻ thế nào? Nó có đủ năng lượng không? Nó có được cân bằng giữa số enzyme tiêu hóa mà nó cần không? Rồi bạn hãy theo thức ăn mà ra khỏi dạ dày, qua tá tràng, vào ruột non rồi vào ruột già. Mọi thứ có tốt cả không? Bấy giờ bạn quay trở lên đi vào gan, tụy, lách của bạn. Chúng hoạt động có tốt không? Hãy du hành qua bộ phận sinh dục. Chúng có bảo dưỡng được tình yêu mà chúng xứng đáng không?
Nếu có một chỗ nào đó trong thân thể làm bạn bận tâm thì bạn hãy phái bản ngã tinh tế của bạn tới khu vực đó, mang theo yêu thương và năng lượng. Hãy nhìn cho kỹ khu vực đó. Nếu nó thiếu thứ gì thì hãy để bản ngã tinh tế của bạn làm điều gì đó cho nó. Nếu nó cần được thanh lọc thì hãy thanh lọc. Nếu nó cần năng lượng, hãy để bản ngã tinh tế gửi năng lượng tới cho nó.
Khi bạn đã thỏa mãn với việc thăm dò và chăm sóc thân thể mình, bạn hãy để cho bản ngã tinh tế lớn lên thành bạn với kích thước bình thường và hòa nhập với bản ngã thực của bạn.
Bạn có thể trở lại với phương thức tự thăm dò này vào bất cứ lúc nào bạn  muốn.
Bạn hãy đưa bản thân mình trở về với trạng thái nhận thức bình thường nhưng hãy cứ để cho bản thân thư giãn sâu, tự tin và biết nhận thức. Bạn đã chụp quét chính thân thể bạn.

2. Chụp scan cho bạn mình
Hãy ngồi đối diện với bạn mình trên ghế. Một người có thể là quan sát viên và người kia ở trạng thái khai mở để được quan sát. Hãy tiến hành thiền định để tĩnh lặng tâ trí. Nhẹ nhàng để bản thân tập trung vào bạn mình. Mắt nhắm. Nhớ rằng đây cũng tựa như du hành qua thân thể vậy. Lúc này có thể du hành bằng mắt qua thân thể của bạn mình. Chỉ có khác một chút, bởi vì lúc này ta chụp quét từ bên ngoài vào.
Trước hết, hãy chụp quét cả thân thể để tìm ra khu vực nào thu hút mình. Đầu tiên, có thể dùng hai tay, nhưng tay chớ đụng vào người. Về sau sẽ không cần dùng tay nữa. Khi được trực giác thu hút tới một khu vực trên thân thể của bạn mình thì hãy tập trung hơn vào nơi đó. Hãy để cho bản thân tập trung vào các cơ quan ở khu vực ấy. Hãy tin vào cái mình nhìn thấy. Ta có thể có một màu sắc, một kết cấu,, một cảm giác hoặc đúng là một ý thức mơ hồ về cái gì đó. Hãy để cho bức tranh đi vào đầu mình.
Khi đã thỏa mãn với cái mình tìm ra được, hãy để cho bản thân bị thu hút vào một khu vực khác của thân thể bạn mình và lặp lại như trên. Nếu như không bị thu hút vào khu vực nào cả thì chỉ bắt đầu chụp quét thân thể.
Có thể chụp quét thân thể bằng cách chụp quét từng vùng, hoặc nếu biết giải phẫu (cần phải học nếu muốn trở thành thầy chữa) thì chụp quét các cơ quan. Hãy ghi những gì mình nhìn thấy.
Khi đã thỏa mãn với việc thăm dò đó, hãy từ từ trở lại với bản thân và mở mắt ra.
Hãy luận bàn với bạn ta cái mà ta nắm bắt được. Điều ta nắm bắt có tương quan với điều mà bạn ta biết về bản thân hay không? Điều gì không ăn khớp? Có thể giải thích tại sao không? Có thể câu trả lời nằm trong những điều mà ta thừa nhận. Có thể vấn đề nằm trong chính bản thân ta. Có thể là ta đúng, còn bạn ta không biết về tình hình mà ta "đã nhìn thấy". Lúc này hãy chuyển vai đi và để cho bạn quan sát mình. Hãy để cho bản thân ở trạng thái thụ động để bạn ta dễ dàng tiến hành công việc.
3. Thiền định để khai mở scanner con mắt thứ ba
Một phương pháp tập luyện mà Đức C.B một trong các thầy học của tôi, gợi ý là nằm ngửa hoặc ngồi ở tư thế thẳng lưng. Đảm bảo thật thoải mái. Hít sâu vào bằng mũi. Trước tiên làm cho bụng dưới đầy không khí, rồi phần ngực giữa, đến phần ngực trên. Sau đó mở miệng ra, càng to càng tốt. Giữ cho phần sau của lưỡi hướng về phần sau của họng và giữ họng sao cho không khí chỉ thoát ra nếu nó cọ vào phần sau trên của họng, gần màng hầu. Hãy cố tìm cách cho không khí cọ vào, càng phía sau càng tốt. Âm thanh phát ra do cọ cần phải thanh nhẹ, không ùng ục. Đừng oặt đầu ra phía sau mà giữ đầu thẳng theo cột sống. Từ từ để cho không khí ra khỏi thân thể bạn, đầu tiên là không khí ở bụng dưới, rồi phần ngực giữa, xong đến phần ngực trên. Để cho toàn bộ không khí đi ra. Thở và thư giãn. lặp lại thở cọ. Khi đã nắm chắc được vấn đề này thì hãy thêm phần mường tượng sau đây;
Trong khi thở ra, hãy mường tượng một luồng ánh sáng óng vàng xuất phát ở vùng chậu sau và chạy thẳng lên theo cột sống đi vào vùng não trung tâm. Lặp lại ba lần như vậy theo ba lần thở có cọ không khí vào màng hầu. Bấy giờ hãy tập trung vào phía trước thân thể. Luồng ánh sáng này có màu hồng ở phía trước thân thể. Lặp lại ba lần theo ba lần thơ cọ. Nhớ rằng hai luồng ánh sáng này ôm lấy nhau bên trong trung tâm của não.
Mỗi lần bạn học xong bài tập này, bạn đừng thực hiện thêm quá ba đến bốn lần thở cho quy tắc đó sẽ bị hoa mắt, choáng váng. Yêu cầu thực hiện bài tập cuối cùng này hết sức cẩn thận vì nó rất mạnh mẽ. Lấy cái gì cũng phải từ từ. Bạn không thể tăng đốc độ cho sự tiến triển của mình bằng phương cách vô tổ chức. Một phương cách như vậy không bao giờ có kết qua (mặc dù phần đông chúng ta mong cho nó có).
Nhiều lần trong một buổi chữa, tôi thực hiện các bài tập thở rất nhanh và điều đó giúp tôi nâng cao các rung động và năng lượng của mình, đến mức tôi có thể nhìn vào hào quang tốt hơn, nhìn thấy những mức cao hơn của hào quang, và cũng truyền được những tần số cao hơn qua trường hào quang của bản thân. Để làm việc đó, tôi cọ không khí vào phần sau trên của họng, nhưng tôi thở rất ngắn và nhanh bằng mũi. Do chỗ tôi đã nhiều lần thực hiện các bài tâp trên nên bây giờ tôi tiến hành việc này một cách dễ dàng. Đôi khi tôi cũng thở sâu, đều, thậm chí thở vào thở ra mà không cần nghỉ ở giữa và cọ không khí vào phía sau họng để tập trung chú ý, để cho tâm trí khoáng đạt và cân bằng trường năng lượng của mình. Tôi gọi kỹ thuật thở này là thở cọ mũi.
Khi thị giác cao cấp đi đôi với thính giác cao cấp thì thông tin nhận được càng trở nên hữu ích hơn.
Tìm nguyên nhân bệnh tật: Đi ngược lại thời gian
Tôi đã phát hiện ra một phương thức "đọc" nguyên nhân của một vấn đề thể chất đặc biệt. Nó phối hợp hai kỹ thuật. Kỹ thuật thứ nhất là phương thức thông thường gợi ký ức. Đơn giản nhớ lại hồi ta còn trẻ. Bây giờ hãy lấy một tuổi nào đó, hoặc một vị trí nào đó mà ta đã sống và nhớ lại nó. Rồi nhớ lại một thời gian còn sớm hơn thế. Quá trình bên trong gợi  ý ký ức là gì? Nó giống cái gì? Khi tôi nhớ việc gì đó trong quá khứ, tôi sử dụng tâm trí mình theo một phương thức riêng. Tôi biết cái đó giống cái gì. Tôi giữ ký ức về cảm nghĩ, hình ảnh hoặc âm thanh. Thật dễ dàng "đi ngược lại" thời gian; tất cả chúng ta đều làm như thế. Phần đông tin rằng chỉ có thể làm được điều đó cho bản thân, chứ không làm được cho người khác. Đó đúng là một niềm tin hạn chế. Tôi đã phát hiện ra rằng chính quá trình bên trong đó , quá trình đi ngược lại thời gian, được sử dụng để "đọc" lịch sử đã qua của bệnh tật.
Kỹ thuật thứ hai là sử dụng mối liên kết tâm động và thấu thị. Trước hết tôi liên kết với phần đặc biệt có vấn đề của thân thể bằng cách sử dụng giác quan tâm động của mình. Sau đó tôi có một bức tranh của khu vực có vấn đề để mô tả điều kiện hiện tại của nó. Tôi giữ mối liên kết này rồi đi ngược lại thời gian, đọc quá khứ và chứng kiến lịch sử của phần thân thể đó đó. Vì tôi cứ chứng kiến trở lại quá khứ, cuối cùng tôi "đọc được"nguyên nhân của vấn đề. Chẳng hạn, tôi sẽ thấy một chấn thương xảy ra cho một phần thân thân thể vào một  thời điểm khá xa trong đời sống của bệnh nhân. Rồi lại sẽ thấy một chấn thương khác, còn xa hơn cái kia, cứ thế. Phần lớn những bệnh trầm trọng là kết quả của một chuỗi dài những chấn thương như thế. Tôi cứ đơn giản đi ngược lại thời gian cho tới thời điểm trước khi xảy ra chấn thương ở phần thân thể đó. Chấn thương đầu tiên xảy ra là nguyên nhân khởi đầu của vấn đề hiện tại.
Điểm lại Chương 18
1. Sử dụng thấu thị có thể thấy được gì? Bạn thấy được vùng nào trong thân thể? Ở độ sâu bao nhiêu?
2. Bằng thấu thị, người nhìn có thể cảm nhận các vật với dãy kích cỡ nào?
3. Có thể sử dụng thấu thị từ xa được không?
4. Hãy liệt kê ba bài tập thấu thị.
5. Tuyến nội tiết nào là máy dò cho việc thấu thị.
Để làm động não
6. Điểm khác nhau giữa mường tượng và cảm nhận? 
Chương 19

THÍNH GIÁC CAO CẤP VÀ VIỆC LIÊN LẠC VỚI CÁC THẦY DẠY TÂM LINH 
Thông tin mà tôi nhận được bằng thính giác lúc đầu có tính chất chung, về sau, khi thực hành nhiều thì thông tin có tính chất đặc hiệu. Chẳng hạn, tôi thường nghe những lời nói đầy yêu thương và quả quyết dành cho người đến chữa trị. Về sau thông tin này trở nên đặc hiệu, như tên bệnh nhân, mắc chứng bệnh gì, hay trong một số trường hợp cả chế độ ăn, vitamin, cách chữa chạy hoặc thuốc men gì có lợ cho bệnh nhân đó. Nhiều người theo những hướng dẫn bằng lời này đều thu được kết quả tốt.
Phương thức tốt nhất để nâng cao thinh giác cao cấp mà tôi biết là ngồi để nhận hướng dẫn. Lấy bút giấy, ngồi vào tư thế thiền định thoải mái, tập trung bản thân và nâng cao ý thức. Hình thành trong tâm trí một câu hỏi càng rõ càng tốt. Lúc này tập trung vào việc muốn biết được sự thật về vấn đề đó, bất kề câu trả lời như thế nào. Sau đó viết câu hỏi lên giấy. Đặt bút giấy xuống ngay cạnh mình, tập trung và tĩnh lặng tâm trí. Chờ đợi câu trả lời sẽ đến với mình trong hình thái những bức tranh, những cảm nghĩ, những khái niệm chung, những lời nói hay thậm chí cả mùi nữa. Viết câu trả lời ra giấy, bất kể nội dung như thế nào. Có thể bạn nghĩ rằng nó không thích hợp nhưng cứ viết đi. Hình thức của thông tin đi tới sẽ thay đổi. Bạn cứ ngồi lại với nó và viết. Bản ghi chép cuối cùng sẽ bắc đầu định hướng cho thông tin bằng lời nói. Hãy tập trung vào việc trực tiếp lắng nghe những lời nói với mình. Thực hành, thực hành, hãy thực hành nữa. Hãy viết bất cứ điều gì đến với mình. Đừng quên điều gì cả. Sau khi bạn viết xong, hãy để tờ giấy riêng ra ít nhất trong bốn tiếng đồng hồ. Sau đó bạn quay lại và đọc điều bạn đã viết. Bạn sẽ thấy nó thú vị. Bạn hãy dành một cuốn sổ tay cho mục đích này.
Sau khi tôi tập như trên trong 3 tháng liền, hằng ngày vào lúc bình minh thì thông tin bằng lời nói đến với tôi nhanh đến nỗi tôi không tài nào viết kịp. Tiếng nói gợi ý cho tôi mua một máy đánh chữ. Chẳng bao lâu sau, tôi đánh máy cũng không kịp nữa. Tiếng nói lại gợi ý mua một máy ghi âm. Tôi mua. Lúc đầu thật khó chuyển từ viết tay sang đọc to những lời nói lên. Âm thanh tiếng nói của tôi giao thoa với bản thân đang tĩnh lặng lúc này có khả năng in sâu vào tâm trí tôi. Qua thực hành tôi lại trở nên thông tỏ. Bước tiếp theo là tiến hành việc này cho người khác, sau đó là trước mặt một nhóm. Điều này đặc biệt làm ta lúng túng, bởi vì công thức dẫn kênh bằng lời nói hoạt động có nghĩa là người dẫn kênh chỉ có thể nghe được mấy lời đầu tiên của nội dung sắp nói. Nó đòi hỏi niềm tin khi chộp lấy đoạn đầu của một câu và để cho phần còn lại mà mình chưa biết bị trôi qua.
Trải nghiệm về khai thác thông tin bằng lời nói đưa ta đến một câu hỏi không thể tránh né:"Ai nói?". Chắc chắn là tôi nghe một tiếng nói. Nó là tiếng nói mà tôi bịa ra, hay nó có nguồn gốc khác? Tìm ở chỗ nào tốt nhất? Hãy hỏi tiếng nói! Tôi đã làm như vậy. Tiếng nói trả lời:"Tên tôi là Heyoan, hướng đạo tâm linh của bạn".
Heyoan có nghĩa là gì?
"Là Cơn gió thì thầm chân lý qua nhiều thế kỷ".
Cơn gió ấy từ đâu đến?
"Kenya"
Điều có thật là trước đó tôi đã từng nhìn thấy các thần linh và thiên thần hiện hình, nhưng tôi đã xếp những điều này vào loại ảo ảnh. Bây giờ thì họ chuyện trò với tôi. Chẳng bao lâu sau tôi cảm nhận được sự đụng chạm của họ vào người tôi và một đôi lần khi tôi nhìn thấy một mùi thơm kỳ lạ. Đây chỉ là ẩn dụ, hay là thực tại? Toàn bộ thực tại riêng của bản bản thân đến với tôi qua các giác quan và vì các giác quan đó đã phát triển cho nên lúc này có một thực tại to lớn hơn, khái quát hơn hiện hữu đối với tôi. Những người khác có tri giác phát triển cũng phải trải nghiệm như vậy. Đối với tôi, điều đó là có thật. Bạn chỉ có thể quyết định bằng trải nghiệm của bạn.
Nhận thông tin từ hướng đạo khác ở chỗ bạn đi vào một ẩn dụ mà bạn đòi hỏi có thông tin từ một người uyên bác hơn và từng trải hơn bạn. Thông tin đi vào vượt quá hiểu biết của bạn nhưng nếu để cho nó tiếp tục đi vào thì cuối cùng bạn sẽ hiểu được. Dẫn kênh cho hướng đạo có thể đem lại thông tin vượt quá tư duy tuyến tính và có thể làm cho người ta xúc động sâu sắc; nó vượt qua các giới hạn của con người mà đạt tới linh hồn. Thường thì hướng đạo Heyoan của tôi nói vào lúc bắt đầu buổi đọc. Điều đó có nghĩa là tôi thực hiện việc khai thác trực tiếp một cách thụ động. Rồi đến một thời điểm nào đó, Heyoan sẽ gợi ý bệnh nhân đặt ra các câu hỏi để làm cho mọi việc được sáng tỏ hơn. Tôi cảm thấy đây là khoảng thời gian tốt nhất, bởi vì các hướng đạo thường biết nhiều hơn chúng ta về vị trí thực của các vấn đề. Vì vậy khi Heyoan bắt đầu đọc, chúng tôi không phải mất thì giờ trong việc đạt tới thông tin sâu sắc vẫn chờ sẵn để giúp đỡ chúng tôi.

Tôi cũng đặt ra các câu hỏi cho Heyoan trong các buổi đọc. Thường tôi thực hiện việc này một cách lặng lẽ. Tôi có thể yêu cầu một bức tranh về tình trạng hoặc một phần đặc biệt nào đó của thân thể, hay là yêu cầu mô tả một vấn đề nào đó. Tôi thường đặt các câu hỏi như "Đây có phải ung thư không?". Thường thì tôi nhận được những câu trả lời khá đặc hiệu, nhưng không thoải mái về nội dung mà câu trả lời có thể mang lại. Trong trường hợp ấy tôi thường làm tắc nghẽn thông tin đi vào. Lúc đó tôi lại phải tập trung để tiếp tục. Còn bây giờ là lúc bạn thử làm xem.
Các bài tập để nhận hướng dẫn tâm linh
Hãy ngồi vào tư thế thiền định, lưng thẳng nhưng với một chỗ ưỡn nhẹ ở thắt lưng. Bạn có thể ngồi trên ghế tựa, sử dụng lưng ghế để dựa vào, hoặc bạn có thể ưa tư thế yoga hơn thì ngồi trên một gối đệm đặt ở sàn nhà, hai chân bắt tréo. Hãy đảm bảo một tư thế hết sức thoải mái.
1. nếu bạn thuộc dạng tâm động, hãy nhắm mắt lại và chỉ đơn giản theo dõi nhịp thở vào ra thân thể mình. Có thể là bạn muốn thỉnh thoảng lặp lại lời nhắc nhở bản thân "Theo hơi thở tới trung tâm". Bằng khả năng mường tượng của mình, bạn hãy theo hơi thở mà đi vào thân thể và mọi con đường tới trung tâm của bạn. Các giác quan của bạn có thể bắt đầu đi theo luồng năng lượng chảy suốt thân thể bạn.
2. Nếu bạn thuộc dạng thị giác, hãy tưởng tượng có một ống óng vàng lên xuống dọc cột sống, chỗ có luồng sức mạnh chủ yếu của hào quang. Hãy mường tượng ra một quả cầu màu óng vàng ngả trắng bên trên đầu bạn. Khi bạn thở một cách yên bình thì quả cầu chầm chậm hạ xuống qua cái ống mà đi vào phần trung tâm của thân thể bạn tới đám rối thái dương. Sau đó bạn hãy theo dõi quả cầu óng vàng này lớn lên như mặt trời bên trong đám rối thái dương của bạn.
Có thể là bạn muốn làm cho quả cầu óng vàng nơi đám rối thái dương tiếp tục lớn lên.
Trước tiên hãy để cho nó bơm đầy thân thể bạn bằng ánh sáng óng vàng. Rồi để cho nó làm đầy trường hào quang của bạn cũng bằng ánh sáng óng vàng đó. Tiếp tục cho lan ra để làm đầy căn phòng bạn đang ngồi. Nếu bạn thiền định giữa một vòng người bao quanh thì hãy nhìn thấy những quả cầu óng vàng của họ phồng lên tạo thành một vòng tròn óng vàng, làm đầy căn phòng. Hãy để cho nó lan ra, lớn lên to hơn căn phòng, cho tới tòa nhà cao tầng bạn đang có mặt trong đó, cả khu vực bên ngoài tòa nhà, cả thị trấn hay đô thị, cả bang, cả nước, cả châu lục, cả địa cầu và vượt xa hơn. Hãy tiến hành từ từ. Hãy chuyển dịch ý thức của bạn để phát triển quả cầu ánh sáng óng vàng to ra tới mặt trăng, tới các vì sao. Hãy làm đầy vũ trụ bằng ánh sáng óng vàng rực rỡ. Hãy nhìn thấy bản thân bạn là một phần của vũ trụ ấy, làm thành một với cái đó và vì vậy mà làm thành một với Thượng đế.
Bây giờ bạn hãy giữ lấy ánh sáng đang rực rỡ ấy và từng bước mang nó trở lại bên trong, đúng như khi bạn gửi nó đi ra bên ngoài. Hãy làm đầy con người bạn bằng toàn bộ ánh sáng ấy và bằng sự hiểu biết vũ trụ. Phải đảm bảo thực hiện việc này dần dần, tuần tự từng bước đưa trở lại vào bên trong. Hãy cảm nhận trường hào quang của bạn lúc này được nạp nhiều năng lượng kinh khủng. Bạn cũng đã mang trở về cho trường hào quang của bạn nhận thức về việc bạn làm thành một với Đấng sáng tạo.
3. Nếu bạn thuộc dạng thính giác, có thể bạn muốn chỉ đơn giản sử dụng một câu thần chú cho toàn bộ buổi thiền định. Có thể bạn muốn dùng một tên gọi thiêng liêng như thần chú, chẳng hạn Om, Sat-Na, Jesus, hoặc "Hãy im và nhận biết ta là Thượng Đế". Hoặc có thể bạn muốn đánh một nốt nhạc. Tôi thấy có một số hôm phải cố gắng hơn để tập trung, do vậy tôi có thể sử dụng phối hợp các bài thiền định nói trên để làm cho tâm trí mình khỏi bị ảnh hưởng bởi các thứ âm thanh đó. Vào hôm khác, tất cả cái mà tôi cần chỉ đơn giản là một câu thần chú.
Để tiến hành thêm thiền định và thực hành nhằm đạt tới trạng thái chấp nhận bản thân tĩnh lặng và phát triển tính nhạy cảm của bạn, tôi đặc biệt khuyên bạn theo các bài tập trong cuốn sách Kiểm tra tự nguyện của Jack Schwarz. Cuốn sách chứa đựng toàn bộ các loại bài tập phù hợp với tinh thần phương Tây và rất công hiệu.
Do chỗ bạn đã tập trung và tâm trí bạn được tĩnh lặng, bạn sẵn sàng ngồi chờ đợi hướng dẫn tâm linh.
Dẫn kênh các thầy dạy tâm linh của mình để xin hướng dẫn
Mỗi người có vài hướng đạo tâm linh lưu lại với họ và hướng dẫn họ qua suốt nhiều cuộc đời. Thêm vào đó, mỗi người còn có các thầy học hướng đạo lưu lại trong suống những thời gian học hỏi đặc biệt và được chọn lựa cho việc học hỏi đặc biệt đó. Chẳng hạn, nếu bạn học để thành nghệ sĩ, bắt buộc bạn phải có một vài hướng đạo thuộc dạng nghệ sĩ ở xung quanh để tạo cảm hứng. Trong bất cứ công trình sáng tạo nào mà bạn để tâm trí vào, tôi chắc rằng bạn đã được các hướng đạo tạo cảm hứng cho, họ là những người có mối liên kết với loại công việc này trong thế giới tâm linh, ở đó các hình thái được hoàn hảo hơn và tốt đẹp hơn cái mà chúng ta có khả năng thể hiện trên bình diện trái đất.
Để tiếp xúc với các hướng đạo của mình, hãy đơn giản ngồi lại trong sự thấu hiểu tĩnh lặng, yên bình là bạn làm thành một với Thượng đế, là ánh sáng của Thượng đế hiện hữu trong từng phần của thân thể bạn và bạn được tuyệt đối an toàn. Thái độ đó cho phép bạn đạt tới trạng thái tĩnh lặng nội tâm và trạng thái này cho phép bạn nghe được.
Nói chung, khi đi vào trạng thái nâng cao để xin hướng dẫn, tôi đi qua trải nghiệm nội tâm sau đây.
Tôi cảm thấy bị kích thích vì có cảm giác về sự hiện diện của một hướng đạo giàu ánh sáng và yêu thương. Rồi tôi nhận thấy một chùm tia sáng trắng bên trên tôi và tôi bắt đầu nâng mình lên để đi vào trong chùm tia sáng đó (Người ta có thể nói là tôi đi lên để nhập vào đó bằng óc tưởng tượng). Tình trạng kích thích trong tôi giảm bớt khi tôi nhận ra một đám mây màu hồng của yêu thương hạ xuống phủ lên người tôi. Tôi trở nên tràn trề cảm giác yêu thương và an toàn. Bấy giờ tôi cảm thấy bản thân được nâng lên vào trong một trạng thái cao hơn của ý thức. Vào lúc này thân thể tôi có thể điều chỉnh đôi chút, như khung chậu võng xuống hơn (tư thế hướng về phía trước) và cột sống thẳng ra hơn. Tôi có thể ngáp một cái không tự giác để giúp luân xa họng của mình khai mở (Đây là luân xa qua đó ta nghe được tiếng nói của các hướng đạo).
Sau khi lên cao thêm, tôi đi vào một trạng thái yên bình thiêng liêng. Thường thì lúc này tôi vừa nghe tiếng vừa nhìn thấy các hướng đạo. Suố trong thời gian bắt đầu đọc thông tin, tôi vẫn tiếp tục lên cao. Tôi thường có khoảng ba thầy dạy hướng dẫn cho. Người đã đến trước đây để giúp tôi thường có một hoặc nhiều hướng đạo của Người đi theo.
Đó là trải nghiệm về ánh sáng, yêu thương và yên bình khẳng định mối liên kết của bạn với các hướng đạo. Nếu bạn không có được điều này khi tìm cách dẫn kênh thì cầm chắc là lúc ấy bạn không liên kết được với các hướng đạo.
Hướng đạo sẽ truyền đạt thông tin với hình thái nào mà bạn dễ tiếp nhận nhất. Hoặc là một khái niệm chung, những lời nói trực tiếp, những bức tranh biểu tượng, hoặc là những bức tranh trực tiếp về những sự việc xảy ra như các trải nghiệm trong quá khứ hay tiền kiếp. Khi một hình thái truyền đạt không tới được bạn, hoặc là bạn sợ hãi điều được chuyển đến thì các hướng đạo sẽ chuyển sang một hình thái khác hoặc tiếp cận vấn đề từ một khía cạnh khác. Chẳng hạn, nếu tôi sợ những lời nói đi vào có một ý nghĩa nào đó, hay nếu có người nào đã đặt ra một câu hỏi đặc bệt có thể gây tranh luận, tôi thường "chạy trốn"  khỏi vị trí thanh bình và hài hòa nội tâm ấy và không còn nghe được những điều mà hướng đạo nói nữa. Bấy giờ tôi phải mất một hai phút để tìm lại vị trí ấy trong tôi. Nếu tôi vẫn không nắm bắt được lời của họ thì các hướng đạo chắc hẳng sẽ gửi đến cho tôi một khái niệm tổng quát mà sau đó  tôi tìm cách lý giải bằng lời lẽ của riêng tôi. Điều này dần dần lại hòa hợp với những lời nói của các hướng đạo và tôi "trở lại hàng ngũ". Nếu việc đó không có hiệu quả thì nội dung sẽ được chuyển đến dưới dạng một bức tranh mà tôi sẽ bắt đầu mô tả và để cho bệnh nhân giúp mình tìm ra ý nghĩa của bức tranh biểu tượng đối với họ.
Các trải nghiệm bên trong của tôi về dẫn kênh bằng lời nói như sau: Tôi ngồi ở tư thế bắt tréo chân, hai lòng bàn tay đặt dưới bắp vế. Trước hết tôi tập trung vào bản thân. Theo tôi, việc này về phương diện tâm động có nghĩa là bám chặt vào thân thể mình. Có cảm giác như thể tôi xây một nền móng năng lượng chắc chắn ôm lấy nửa thân dưới. Có nền móng này rồi, tôi bắt đầu nâng cao ý thức của mình bằng cảm nghĩ tâm động là nó dâng lên và tập trung vào phía trên để đi vào trong ánh sáng. Tôi cũng xoay hai lòng bàn tay hướng lên trên khi tiến hành việc này. Đến một điểm nào đó khi tôi đã được nâng lên cao thì sẽ có tiếp cận với hướng đạo. Một lần nữa tôi lại cảm nhận điều này bằng tâm động. Tôi nhìn thấy hướng đạo của mình ở phía sau vai phải và tôi nghe một vài lời nói đầu tiên phát ra từ phía đó. Khi tôi và hướng đạo đã sẵn sàng để bắt đầu, tôi giơ hai tay, giữ các đầu ngón áp sát nhau và đặt lên trước đám rối thái dương hoặc trước tim mình. Điều này làm cân bằng trường năng lượng của tôi và giúp cho việc duy trì trạng thái được nâng cao. Thở cọ mũi cũng hỗ trợ cho việc đó. Vào lúc này, tôi thường bắt đầu dẫn kênh bằng lời nói. Trước tiên lời nói đi từ khu vực vai phải tới. Tôi càng liên kết chặt chẽ với quá trình dẫn kênh bao nhiêu thì những lời nói đó càng gần sát bấy nhiêu. Hướng đạo cũng như tiến lại gần hơn. Chẳng mấy chốc không có thời gian trễ giữa nghe và nói, và hướng đi rõ ràng của những lời nói chuyển dịch lên phía trên và bên trong đầu tôi. Hướng đạo cũng hiện ra ăn khớp như in với tôi. Người bắt đầu lắc hai cánh tay và hai bàn tay của tôi phối hợp với đối thoại. Người thường dùng hai tay tôi để cân bằng trường năng lượng của tôi và cho năng lượng tuôn chảy vào các luân xa của tôi trong khi Người nói chuyện. Việc này giữ cho năng lượng ở mức cao và tập trung. Bản thân nhân cách tôi như bồng bềnh đâu đó, lắng nghe và theo dõi tất cả. Cùng lúc đó, tôi cảm thấy hòa cùng hướng đạo, như thể tôi là hướng đạo. Là hướng đạo, tôi cảm thấy mình lớn hơn nhân cách của mình là Barbara.
Vào cuối cuộc đối thoại, trải nghiệm của tôi là thôi liên kết bằng ánh sáng với hướng đạo và ngừng nâng mình lên, trong khi ý thức của tôi chìm xuống đi vào thân thể và bản thân nhân cách tôi. Vào lúc này tôi thường hết sức nhút nhát.
Giác quan các luân xa
Cho đến đây tôi chỉ mới đề cập đến việc đáo đạt thông tin bằng bốn giác quan thông thường là thị giác, thính giác, xúc giác và khứu giác. Hiếm hoi thôi, nhưng tôi giả định rằng con người cũng có thể dẫn kênh bằng vị giác. Qua nghiên cứu quá trình đáo đạt thông tin, tôi thấy rằng mỗi phương thức hay mỗi giác quan có liên quan đến một luân xa; nghĩa là ta đáo đạt thông tin thông qua cơ chế cảm giác của từng luân xa. Hình 19-I liệt kê bảy luân xa và giác quan hoạt động qua mỗi luân xa. Khi tôi quan sát một người đang dẫn kênh, tôi có thể cảm nhận người đó đang sử dụng luân xa nào để có được thông tin. Luân xa đó thường rất hoạt động và có nhiều năng lượng chảy qua hơn trong khi người đó dẫn kênh. Nhớ rằng ta thường không phân biệt được giữa giác quan tâm động, cảm nghĩ và trực giác, song theo quan niệm của tôi, chúng khác nhau như được mô tả ở Hình 19-I. Ta cũng không gọi yêu thương là một giác quan. Hãy bắt đầu ngay việc chú ý hơn đến điều diễn ra khi bạn đang yêu hay "yêu thương bằng cảm giác". Yêu thương không phải cùng loại với các cảm nghĩ khác. Dĩ nhiên yêu thương đúng là hơn cả giác quan. Nó cũng là phương thức của con người để hòa nhịp với những người khác.
Loại thông tin mà bạn nhận được qua mỗi luân xa có khác nhau. Luân xa 1 chuyển giao thông tin cảm nghĩ tâm động trong thân thể bạn như một cảm giác về cân bằng hay mất cân bằng, những run rẩy chạy lên chạy xuống dọc cột sống, nỗi đau thể chất trên một phần thân thể, một cảm giác về bệnh tật hay sức khỏe, an toàn hay lâm nguy. Thầy chữa có thể sử dụng thông tin này để biết được bệnh nhân đang ở trạng thái nào. Nếu thầy chữa cảm thấy có bệnh và biết rằng bệnh này không phải ở nơi mình thì thầy chữa sẽ biết đó là của bệnh nhân. Khi thầy chữa đặt tay lên chân đau của bệnh nhân thì có thể thầy chữa thấy đau ở chính chân mình hay tay mình và nhờ vậy mà cảm nhận được đau đớn ở chân của bệnh nhân. Mọi thông tin loại này đều đến qua luân xa 1 và có thể được sử dụng rất công hiệu nếu thầy chữa thanh lọc bản thân đến mức thân thể của chính mình là một màn hướng âm. Thầy chữa có thể phân biệt giữa thân thể mình và thân thể bệnh nhân. Nếu thầy chữa cảm thấy đau ở chân thì tốt nhất là phải biết rằng mình đau từ trước khi bệnh nhân tới hay "lây phải" đau của bệnh nhân. Dĩ nhiên có những điều bất lợi trong phương pháp khai thác thông tin này. Ta sẽ nhanh chóng bị mệt mỏi khi cảm nhận nỗi đau thể chất của bất kỳ ai.
Luân xa 2 chuyển giao thông tin về các trạng thái cảm xúc của thầy chữa hoặc của người khác. Thầy chữa lại phải sử dụng trường năng lượng của chính mình để phân biệt giữa các xúc cảm của bản thân với các xúc cảm của bệnh nhân. Phải học hỏi điều này qua thực hành và thực hiện tốt thông tin hai chiều. Chẳng hạn, thầy chữa sẽ cảm nhận cái mà bệnh nhân cảm xúc và đau đớn ở chân. Có thể bệnh nhân tức giận về chuyện ốm đau, hay rất sợ hãi vì chuyện này. Bệnh nhân có thể sợ rằng đau chân thực sự là biểu thị một tình trạng rất nặng. Điều quan trọng là sử dụng thông tin này bởi vì mọi bệnh tật đều kèm theo những xúc cảm cần được thanh toán bằng phương thức nào đó.
Luân xa 3 cung cấp thông tin mơ hồ, chẳng hạn như khi ai đó nói "Tôi đã nghĩ là anh sẽ gọi tôi và anh gọi thật", hay "Trực giác của tôi mách bảo rằng tôi không được đi chuyến bay hôm nay; vì điều gì đó có thể xảy ra". Nếu con người cảm nhận những người khác từ một trình độ khác và luân xa 3 được sử dụng vào việc cảm nhận đó thì người này sẽ có một cảm giác mơ hồ về sự có mặt của người khác trong phòng, về vị trí, hình dạng và kích thước đại thể, về ý định, nghĩa là thân thiện hay thù nghịch. Luân xa 1 sẽ phát hiện ra thông tin tâm động về sự hiện, và luân xa 2 sẽ phát hiện ra cảm nghĩ của người khác. Trong ví dụ về đau chân, luân xa 3 cung cấp một ý nghĩ mơ hồ về ý nghĩa sâu sắc của đau đớn này đối với đời sống bệnh nhân và cũng cung cấp một số trực giác về nguyên nhân đau đớn.
Luân xa 4 chuyển giao những cảm nghĩ yêu thương. Yêu thương vượt ra ngoài bản thân, bạn đời hay gia đình để đi tới nhân loại và chính cuộc đời.
Khi bạn cảm nhận bằng luân xa 4, bạn có thể cảm nhận yêu thương của người khác và chất lượng cũng như số lượng của yêu thương đó, dù nó nằm trong thân thể hay không nằm trong thân thể. Con người có thể cảm nhận tình yêu thương chung của nhân loại. Trong ví dụ về đau chân, con người sẽ cảm thấy mình yêu thương bệnh nhân và cảm nhận được chất lượng yêu thương của bệnh nhân đối với mình. Luân xa này cũng mang lại cảm giác về mối liên kết với tất cả những ai đã từng đau chân.
Luân xa 5 mang lại cảm giác về các âm thanh, âm nhạc, lời nói, mùi và vị. Thông tin này có thể rất đặc hiệu, tùy theo mức của trường hào quang mà từ đó nó xuất phát (Xem phần sau). Chẳng hạn, với bệnh nhân đau chân, có thể thầy chữa nhận được rõ ràng một mô tả vấn đề với thuật ngữ sinh lý học như "Đó là viêm tĩnh mạch" hoặc "Đó là một bắp thịt bị căng do đôi giày mới sắm làm trẹo chân khi bệnh nhân đi lại". Luân xa 5 cũng có thể phát hiện một âm thanh mà nếu đem dùng để chữa chân sẽ rất hữu hiệu.
Luân xa 6 phát hiện các bức tranh. Những bức tranh này có thể là biểu tượng mang ý nghĩa rất riêng cho bệnh nhân, hoặc là nguyên bản. Những bức tranh nguyên bản là những bức tranh về các sự kiện đã xảy ra, đang xảy ra hoặc sẽ xảy ra. Chúng cũng là hình ảnh của những đồ vật hiện hữu. Khi tôi nói hình ảnh, tất nhiên tôi không muốn nói là bạn nhìn thấy chúng như nhìn thấy bằng mắt thường, bởi vì thế nào bạn cũng nhận được một bức tranh trong tâm trí mang lại một ấn tượng đủ mạnh và để bạn quan sát nó theo cung cách có thể cho phép bạn vẽ hoặc sao lại nó nếu bạn muốn. Chẳng hạn, trong trường hợp đau chân, luân xa 6 có thể phát hiện một hình ảnh máu cục kết hợp với viêm tĩnh mạch, hoặc thầy chữa có thể chỉ đơn giản nhìn thấy bắp thịt bị căng, tùy theo nguyên nhân của đau đớn. Hình ảnh có thể hiện ra trên màn hình của tâm trí thầy chữa như trên tivi, hoặc nó có thể hiện ra đang đi thẳng từ bên trong chân đến, như khi nhìn bằng mắt thường. Luân xa 6 cũng có thể phát hiện một bức tranh biểu tượng có một vài ý nghĩa đối với bệnh nhân nhưng phần chắc là không có nhiều ý nghĩa đối với thầy chữa.
Bức tranh biểu tượng sẽ hiện ra trên màn hình tâm trí của thầy chữa. Luân xa 6 cũng có thể phát hiện, trong hình thái bức tranh, trải nghiệm quá khứ của bệnh nhân liên kết với đau chân chẳng hạn hình ảnh một đứa bé ngả xe ba bánh và đang đụng vào chân ở ngay chỗ đau hiện tại sau đó hai mươi năm. Cách trực tiếp khai thác thông tin này còn hơn xem chiếu phim.
Xin nhớ cho là tôi đang nói về việc nhận các bức tranh. Cảm nhận có nghĩa là nhận. Cảm nhận là nhận cái gì đã có sẵn ở đó, bằng hình thái biểu tượng hay bằng hình thái nguyên bản. Mường tượng là một chức năng hoàn toàn khác. Quá trình mường tượng là sáng tạo chủ động. Khi mường tượng, bạn tạo ra một bức tranh trong tâm trí và cho nó năng lượng. Nếu bạn tiếp tục giữ nó rõ ràng trong tâm trí và cho nó năng lượng thì cuối cùng bạn có thể tạo được nó trong cuộc đời. Như vậy là bạn đã cho nó hình thai và nội dung. 

Hình ảnh càng rõ bao nhiêu và năng lượng cảm xúc bạn phóng vào cho nó nhiều bao nhiêu thì bạn càng có khả năng sáng tạo được nó trong cuộc đời của bạn bấy nhiêu.
Luân xa 7 phát hiện thông tin dưới hình thái một khái niệm tổng quát. Thông tin này vượt ra ngoài các giác quan hữu hạn của con người và hệ thống thông tin. Người dẫn kênh, sau khi hấp thu và hiểu biết sâu sắc khái niệm đó, phải sử dụng những lời nói của chính mình để mô tả cái mình hiểu biết. Nhiều khi, trong lúc tôi bắt đầu lý giải điều gì đó bằng lời lẽ của chính tôi thì Heyoan thường đi vào (từ luân xa 5) và lý giải nó bằng những lời lẽ rõ ràng hơn tôi. Khái niệm tổng quát đem lại một cảm giác trọn vẹn về hiểu biết. Nó là trải nghiệm của con người với khái niệm. Trong ví dụ về đau chân của chúng ta, luân xa 7 thường phát hiện tình hình toàn bộ cuộc sống mà đau đớn ở chân phối hợp vào.
Giác quan của luân xa ở các mức khác nhau của thực tại
Giờ đây, khi bạn đã có một ý niệm về thông tin đi vào qua từng luân xa, chúng ta hãy nhìn vào các mức khác nhau của thực tại đã được luận bàn ở các chương 7 và 15. Ở đó tôi đã luận bàn về mức thể chất của thực tại, mức tinh tú, mức etheric mẫu, mức thượng giới, mức ketheric mẫu và những sinh linh tồn tại ở mỗi mức. Tôi cũng đã nói rõ rằng có những mức vượt quá cả mức thứ bảy. Để cảm nhận được ở từng mức, luân xa mà qua đó bạn muốn cảm nhận phải ở trạng thai khai mở tại mức đó. Nếu bạn muốn nhìn thấy một vầng hào quang đặc biệt nào thì bấy giờ bạn phải khai mở luân xa 6 của mình tới vầng đó. Nếu bạn muốn nhìn thấy mức thứ nhất của trường hào quang, bạn phải khai mở luân xa 6 của mình tại mức thứ nhất của hào quang bạn. Nếu bạn muốn nhìn thấy mức thứ hai của hào quang, bạn phải khai mở luân xa 6 của mình tại mức thứ hai của hào quang mình. Khi những người mới bắt đầu nhìn thấy hào quang, họ thường nhìn thấy vầng thứ nhất, vì họ khai mở luân xa 6 của họ ở mức thứ nhất của hào quang mình. Khi đã tiến bộ, họ khai mở luân xa 6 ở vầng kế đó và có thể nhìn thấy vầng này.
Khai mở các luân xa tại những mức phía trên mức thứ tư có nghĩa là bạn sẽ bắt đầu cảm nhận các sinh linh tại những bình diện khác của cuộc sống. Điều đó có phần nào phá vỡ cuộc đời riêng của bạn khi lần đầu tiên nó xảy ra và lấy đi một vài cái đã trở thành quen thuộc đối với bạn. Ví dụ, nhiều lần bạn phải lựa chọn giữa tiếp tục câu chuyện với ai đó và ngưng nói chuyện để lắng nghe hướng đạo của mình lúc đó cũng đang tìm cách nói với mình. Tôi đã mất nhiều thì giờ trong cuộc sống với hai thế giới như vậy. Một người nào đó cảm nhận được sự hiện diện của các sinh linh này và trả lời họ, nhưng với những ai không làm được như vậy thì đó chỉ la chuyện không đâu.
Để nghe được một sinh linh sống tại mức tnh tú nói, bạn phải khai mở luân xa 5 ở mức tinh tú. Nếu bạn muốn nghe một hướng đạo tại mức thứ năm nói, bạn phải khai mở luân xa 5 ở mức thứ năm của trường hào quang. Nếu bạn muốn nhìn thấy một hướng đạo tại mức tinh tú, bạn phải khai mở luân xa 6 ở mức thứ tư. Muốn nhìn thấy một hướng đạo tại mức thứ năm bạn phải khai mở luân xa 6 ở mức thứ năm và cứ thế.
Như đã nói rõ trong Chương 7, có nhiều cửa hoặc dấu niêm giữa các nước luân xa nằm sâu bên trong tâm của luân xa. Các dấu niêm hoặc cửa này phải được khai mở để chuyển dịch từ một lớp sang lớp kế cận. Điều này được thực hiện bằng cách nâng cao mức rung động của hệ thống năng lượng của bạn. Nâng cao và duy trì trường năng lượng của bạn ở mức rung động cao hơn tức là làm công việc thanh khiết hóa. Bạn phải giữ cho trường năng lượng của mình trong sáng và được thanh lọc cao độ để nhận biết những mức cao hơn của trường hào quang. Tiến hành việc này có nghĩa là nâng cao tính nhạy cảm trong đời sống thường ngày của bạn. Tức là nhiều vấn đề về tự chăm sóc:Chế độ ăn, tập luyện và thực hành tâm linh, sẽ được luận bàn thêm ở phần VI.
Mỗi mức đại diện cho một quãng tám khác cao hơn mức dưới nó về rung động. Đưa nhận biết hữu thức của bạn tới một mức cao hơn có nghĩa là nâng cao tốc độ rung động mà tại đó nhận biết của bạn hoạt động. Đây chưa hẳn là nhiệm vụ dễ dàng bởi vì khi bạn đã thấy chất liệu trình bày trong các chương nói về tâm lý động lực học, mọi việc tăng cường năng lượng trong hệ thống đều đập long các tắc nghẽn, những tắc nghẽn vẫn kéo bạn đi qua các trải nghiệm mà bạn đã chôn vùi trong tiềm thức, bởi lẽ các sự kiện này quá đe dọa khi được cảm nhận vào thời điểm chúng xảy ra.
Thiền định để nâng cao trải nghiệm về từng mức hào quang của bạn.
Tôi đã tìm ra nhiều thực hành thiền định khác nhau nâng cao trải nghiệm của bạn về từng mức hào quang, cũng đã được giới thiệu ở hình 19-1. Để nâng cao trải nghiệm của bạn ở vầng hào quang thứ nhất, bạn hãy đi dạo hoặc tập thiền định hay thư giản sâu. Để nâng cao trải nghiệm về vầng hào quang thứ hai, hãy thiền định trên cảm giác yên bình về hạnh phúc. Để nâng cao trải nghiệm của bạn về mức thứ ba của hào quang, hãy tiến hành các bài tập "nét sắc bén của trí tuệ". Để nâng cao trải nghiệm của bạn về mức thứ tư, hãy thiền định trên ánh sáng màu hồng của yêu thương và hãy tập trung vào yêu thương một bông hoa. Để nâng cao trải nghiệm về con người tại mức thứ năm của hào quang mình, hãy sử dụng các thiền định thăm dò và lắng nghe. Để nâng cao trải nghiệm của bạn về cơ thể thượng giới của mình, hãy thiền định trên cơ sở trở thành một với Ý thức của Đấng cứu thế hay Chúa Jesus. Để trải nghiệm vầng thứ bảy của con người, hãy ngồi thiền định và sử dụng câu thần chú "Hãy im và nhận biết ta la Thượng Đế".
Điểm Lại Chương 19
1. Phương thức tốt để học thính giác cao cấp là gì?
2. Bạn có thể ngồi để xin hướng dẫn như thế nào? Hãy thực hành điều này ít nhất ba lần trong tuần này.
3. Các hướng đạo của bạn sẽ tìm cách thông tin với bạn bằng những hình thái nào?
4. Hãy mô tả giác quan phối hợp với mỗi một trong số bảy luân xa.
5. Nếu bạn muốn "nhìn thấy" một hướng đạo tại mức ketheric mẫu, bạn cần khai mở luân xa nào ở mức nào của trường hào quang?
6. Nếu bạn muốn "nghe" một hướng đạo tại mức tin tú, bạn cần khai mở luân xa nào ở mức nào của trường hào quang?
7. Nếu tôi phải nói rằng tôi đã có một cảm giác mơ hồ là có người ở trong góc nào đó của căn phòng và người đó không lấy gì làm thân thiện, thì tôi phải cảm nhận điều đó qua luân xa nào? Người đó sẽ hiện hữu tại mức nào của trường hào quang?
8. Bạn khai mở một luân xa đặc biệt tại một mức đặc biệt của trường hào quang bạn như thế nào?
9. Khác biệt chính giữa nhìn thấu thị và nhận thông tin do dẫn kênh cho hướng đạo?
Để làm động não
10. Nếu bạn thỉnh cầu và đi theo hướng dẫn thêm nữa thì đời bạn đã đổi khác như thế nào?
11. Về việc chủ động thỉnh cầu hướng dẫn trong đời mình, bạn gặp những chống đối nào là chủ yếu?
12. Hãy xin được hướng dẫn để học cách sử dụng hướng dẫn tốt hơn trong đời bạn. Câu trả lời ra sao?
13. Niềm tin tiêu cực của bạn là gì, hoặc hình ảnh về những điều xấu sẽ xảy đến với bạn nếu bạn đi theo hướng dẫn là gì? Điều đó có liên quan đến những trải nghiệm với quyền uy giữa tuổi thơ của bạn như thế nào? Nó liên quan đến mối liên kết của bạn với hình ảnh của Thượng Đế như thế nào?
14. Nếu ta có tự do ý chí thì tiên tri tác động như thế nào?
15. Việc sử dụng loại tri giác này có thể thay đổi cuộc đời của bạn như thế nào?
16. Khác biệt giữa mường tượng và cảm nhận? 
Chương 20
ẨN DỤ CỦA HEYOAN VỀ THỰC TẠI 
 
Hình nón tri giác
Trong chương trước tôi đã luận bàn về việc khai mở tri giác của bạn tới những mức cao hơn của thực tại bằng cách nâng cao tốc độ rung động của trường hào quang của bạn. Ý tưởng đó căn cứ vào khái niệm vũ trụ đa chiều gồm nhiều mức tốc độ rung động tồn tại trong cùng không gian. Mức thực tại đó càng tiên tiến hay tinh tế bao nhiêu thì tốc độ rung động càng cao bấy nhiêu. Bây giờ tôi muốn luận bàn về vũ trụ đa chiều này trong giới hạn của các mức tri giác.
Heyoan nói rằng mỗi người có một hình nón tri giác qua đó ta cảm nhận thực tại. Ta có thể sử dụng ẩn dụ về tần số để lý giải khái niệm này, nghĩa là mỗi người có thể cảm nhận trong một dãy tần số nào đó.
Là con người, ta có khuynh hướng định nghĩa thực tại bằng cái mà ta có thể cảm nhận. Cảm nhận này không những bao gồm tất cả các tri giác thông thường của con người mà còn bao gồm cả những phần mở rộng của các tri giác đó qua những dụng cụ ta tạo nên như kính hiển vi và kính thiên văn. Cái gì nằm trong hình nón tri giác của ta thì ta chấp nhận, còn cái gì nằm ngoài hình nó đó thì không có thực. Nếu ta không cảm nhận được nó thì bấy giờ nó không tồn tại.
Mỗi lần ta tạo được dụng cụ mới, ta nâng cao hình nón tri giác của mình lên và có thêm nhiều cái được ta cảm nhận và do đó chúng trở thành có thực. Với tri giác cao cấp, điều tương tự cũng xảy ra, nhưng trong trường hợp này dụng cụ là chính thân thể và hệ thống năng lượng của ta. Vì chúng ta cảm nhận được nhiều cái hơn bằng tri giác cao cấp nên càng có nhiều cái trở nên có thực hơn đối với ta.
Tôi đã thử vẽ một đồ thị bằng cách sử dụng đường cong hình chuông quen thuộc để giúp mô tả hiện tượng này (hình 20-1A). Trục đọc cho thấy độ minh mẫn của tri giác và trục ngang biểu diễn dãy tần số của tri giá. Đường cong hình chuông nằm ở igữa đồ thị có thể được dùng để biểu diễn dãy tri giác thông thường của một người, một nhóm người hay của toàn thể nhân loại về vấn đề đó. Phần lớn chúng ta có những tri giác minh mẫn như đã được xác định bằng vùng có những nét chấm. Bên ngoài vùng này, mức minh mẫn của ta thấp đến mức ta có khuynh hướng không để ý đến cái mà mình cảm nhận. Tuy nhiên, nếu ta chấp nhận mọi cái mình cảm nhận thì bấy giờ khoảng trống phía dưới đường cong hình chuông cũng xác định cái mà ta gọi là vũ trụ có thực. Đường gãy khúc cho thấy sự tăng tri giác do dụng cụ mang lại cho ta. Chúng ta, ít nhất thì phần lớn chúng ta, cũng đều chấp nhận điều này là thực tại.
Ta hãy nhìn vào điều này trên quan điểm của cái được mệnh dah là Đại thể Brahman và ảo ảnh Maya của truyền thống Phật giáo. Ảo ảnh Maya là một thế giới hiển hiện mà theo Phật giáo nó là ảo ảnh. Đại thể Brahman là thực tại cơ bản nằm ở dưới Maya và chứng minh ho cái hiển hiện. Thiền định được thực hành trong Phật giáo nhằm mục đích vượt ra khỏi ảo ảnh Maya vốn chứa đựng mọi đau khổ và trở thành Đại thể Brahman hoặc được soi sáng. Ở đây ta có một khái niệm rất giống với hình nón tri giác,. Hình 20-1B cho thấy một hình nón tri giác nữa được giải thích trên quan điểm Brahman và Maya. 



Thế giới rõ ràng hiển nhiên của Maya nằm trong hình nón tri giác, trong khi thế giới không hiển hiện của Brahman nằm ngoài hình nón tri giác. trật tự bộc lộ hiển hiện cùa nhà vật lý David Bohm (xem chương 4) nằm trong hình nón tri giác của ta và Trật tự bao hàm tiềm tàng của tác giả này nằm ngoài hình nón tri giác của ta.
Hình 20-2A cho thấy hiệu quả của tri giác cao cấp. Tôi đã xếp cái mà ta gọi là không có thực và không hiện hữu vào loại thực tại tâm linh. Khi ta nâng cao dãy tri giác tới những mức rung động cao hơn thì càng có nhiều thế giới tâm linh (phi thể chất) trở nên có thực đối với ta. Ta càng sử dụng tri giác cao cấp nhiều thì ta càng có khả năng cảm nhận (điều này làm cho ta càng đi tới được nhiều hơn vào thế giới tâm linh) ta càng ra khỏi ảo ảnh và đi vào Đại thể Brahman hoặc sự soi sáng. Từ quan điểm này, đường cong hình chuông trở thành bức màn che giữa hai thế giới tâm linh và vật chất. Heyoan nói rằng chữa trị cuối cùng làm tan biến bức màn che giữa hai thế giới tâm linh và vật chất.
Một điểm khác rất quan trọng là do chỗ những điều tự xác định của ta được xây dựng trên cái mà ta xác định là có thực, chúng ta cũng làm như thế. Hình 20-2B lại cho thấy đường cng hình chuông, song lúc này tôi xếp nó vào trong các giới hạn của tự xác định. Bên trong đường cong, ta có khu vực tự xác định hữu hạn - người mà ta nghĩ là ta - dựa trên tầm nhìn hạn hẹp của ta đối với thực tại. Phía ngoài đường cong, ta có khu vực tự xác định không giới hạn, cuối cùng là Thượng đế. Đường cong trở thành bức màn che giữa người mà ta nghĩ là ta và con người thực của ta. Heyoan nhắc đi nhắc lại rằng hai bức màn che này (giữa thế giới tâm linh và thế giới vật chất, giữa người mà ta nghĩ là ta và con người thực của ta) là tương tự như nhau. Đó cũng là bức màn che giữa cái mà ta gọi là sống và chết. Khi ta biết ta là một linh hồn, thì ta không ngừng sống khi ta chết; đúng hơn là ta chỉ đơn giản rời bỏ thân thể là cỗ xe mà với tư cách linh hồn ta đã tạo ra nhằm mục đích trước tiên là hóa thân. Lúc con người chết, tôi đã chứng kiến (bằng tri giác cao cấp) cảnh linh hồn rời thân thể để đi theo những linh hồn khác trong căn phòng. Lúc chết thì bức màn che biến mất và ta trở về lại làm con người đích thực của ta.
Thế giới hiển hiện
Cách đây ít lâu, trong một buổi đọc thông tin, Heyoan đã dẫn dắt tôi qua một trải nghiệm giải nghĩa cho sự hiển hiện. Đây là bản sao băng ghi âm ấy.
Heyoan:"Vậy thì hiển hiện là gì? Nó liên quan đến khả năng cảm nhận cái đã hiển hiện. Khả năng đó liên quan đến con người và liên quan đến sự cá tính hóa của mỗi người cũng như đến vị trí của cửa sổ tri giác của người đó. Cái được lĩnh hội trong cửa sổ tri giác đó là cái mà bạn định nghĩa là thế giới hiển hiện. Khi cái nhìn hạn hẹp - qua đó bạn cảm nhận hiện hữu - mở rộng ra thì lúc bấy giờ thế giới hiển hiện mở rộng. Chẳng hạn, khi bạn bắt đầu nghe tiếng nói của chúng tôi thì lúc đó bạn sẽ có trải nghiệm hơn về thế giới hiển hiện. Thế giới đó hiện ra kém rắn hơn hoặc loãng hơn nhưng nó vẫn có tính hiển hiện. Diện mạo của tính loãng phù hợp hơn với khả năng của bạn cảm nhận các tần số cao hơn thực tại của những tần số cao hơn mang tính loãng. Sự hạn hẹp cảm nhận đó của bạn làm cho các thực tại cao hiện ra loãng hơn, cũng cho bạn cảm giác là những tần số cao hơn hiện ra biến dần lại vào cái không hiển hiện. Tuy nhiên đây không phải như vậy?"
Barbara:"Như vậy cái tôi đang nhìn thấy là toàn bộ dãy cảm nhận trong cái mà chúng ta gọi là hiển hiện. Nó đơn giản là một bộ cảm nhận, khi Thầy gọi nó là hiển hiện. Vì dãy đó trở nên cao hơn và rộng hơn, hoặc (người ta có thể dùng phép loại suy) góc độ của tầm nhìn càng tăng hoặc trải nghiệm của ta càng mở rộng, thì bấy giờ ta cảm nhận được nhiều hơn về cái mà ta gọi là thế giới không hiển hiện... Ôi, nó hoạt động theo cả hai cách, đến nỗi khi một cái lan xuống những rung động thấp hơn, thì cái kia cũng xác thực".
Heyoan:"Vì lý do này hay lý do khác, nhân loại đã lựa chọn việc xem hoặc mô tả các rung động thấp hơn như là cái tiêu cực, cảnh tối tăm, những hình thù đáng ghét.



Đó là một phương thức tiến hành việc này, mặc dù nó chỉ đơn giản dựa trên bản chất nhị nguyên và cơ chế tri giác của con người. Nó là một phần của hệ thống cảm nhận vốn xem các rung động thấp là tiêu cực".
Barbara:"Ý kiến của Thầy ra sao về toàn bộ bậc thang tiến hóa lâu dài của nhân loại?"
Heyoan: "Trong khuôn khổ tiến hóa, chúng ta sẽ nói đơn giản về khả năng mở rộng cửa sổ cảm nhận. Người ta có thể nói rằng thực tại cụ thể rơi vào trong phần rộng nhất của đường con tri giác hình chuông của bạn. Người ta có khuynh hướng không tin ở tri giác của họ khi họ vượt ra ngoài một độ lệch tiêu chuẩn, hoặc vượt quá phần tối đa của đường cong hình chuông. Do chỗ nhân loại tiến triển theo đường tiến hóa đó, đường cong tri giác hình chuông trở nên ngày càng rộng thêm (xem hình 20-1). Đường cong tri giác hình chuông có thể được coi như là đường cong chỉ rõ những giới hạn của trí tuệ con người trong thời điểm tiến hóa này của nó. Chúng ta sẽ tìm được toàn bộ dãy tri giác của trí tuệ con người hoạt động tại đỉnh của đường cong hình chuông qua tất cả các tần số tri giác đến mức mà thực tại mở rộng, theo tôi, trở nên cụ thể như cái băng ghi âm bạn đang cầm. Đường cong tri giác hình chuông bấy giờ sẽ mở rộng tới đỉnh của nó cho đến khi nó trở nên bẹt. Khi đã đạt tới các tổng thể thì cái hiển hiện và không hiển hiện trở thành một.
"Một cách nói khác là: Khi bạn mở rộng hình nón tri giác, thế giới của bạn càng trở nên hiển hiện hơn đối với bạn và bấy giờ bạn sẽ liên hệ với nó như một phần của thế giới hiển hiện. Như vậy, bạn tiếp tục mở rộng tri giác của bạn qua tiến hóa riêng của mình, càng ngày vũ trụ càng trở nên hiển hiện đối với bạn và bạn tiếp cận Tính duy nhất vũ trụ. Nói cách khác, bạn đang đi trở về nhà."
Qua việc mở rộng thực tại đã cảm nhận được, con người có thể và sẽ chọn tần số nào dùng để cảm nhận và thậm chí tồn tại trong vũ trụ hiển hiện. Nó là một công cụ để hiểu biết trật tự bao hàm. Có thể nói quá trình này là trò chơi của cuộc đời. Khi trật tự bao hàm và trật tự bộc lộ trở thành một, do sự phát triển của tri giác con người, thì lúc đó đạt tới trạng thái được soi sáng.
"Chẳng hạn, chúng ta hãy sử dụng phép loại suy này: Phấn trắng viết trên bảng trắng có thể giống cái không hiển hiện. Bảng đen viết phấn trắng có thể giống như cái không hiển hiện lần đầu tiên ập vào nhị nguyên. Bảng màu kem viết phấn màu có thể giống như vũ trụ đa chiều. Những cái này có thể được coi như những bước đi trong quá trình tiến hóa của tri giác con người, hoặc của con người thực của bạn, hoặc của Thượng đế/ Nữ thần bên trong cảm nhận bản ngã. Như vậy, khi chúng ta đạt tới những kích thước lớn hơn của thực tại, các màu sắc trở nên dễ nhận hơn và nhiều chiều hơn, như những màu đa chiều bên trong từng màu.
"Cái mà cuộc luận bàn này đề cập là: Bài học về tri giác mới (tri giác cao cấp) trong nhân loại. Khả năng thấu thị của bạn cho phép bạn chọn được vùng mình quan sát, kích cỡ và dải tần số nào. Bạn sẽ nhìn vào biểu hiện thể chất hay vào cái mà bạn gọi là thực tại thể chất? Hay là bạn muốn nhìn vào mức etheric bên dưới, hoặc lớp cảm xúc, hoặc lên lớp etheric bên trên, hoặc thậm chí lớp thứ chính hay thứ tám của hào quang? bạn lựa chọn đặt tri giác của mình vào đâu? Bạn cũng phải quyết định cách giải quyết. Bạn chọn nhìn vào một vi sinh vật hay một cơ quan vĩ mô? Thượng đế hiển hiện chỉ chọn sự hiển hiện qua tri giác, nghĩa là chọn trên phần nào của bề mặt bóng tối mà hiển hiện qua các tri giác. Lẫn trong con người của bạn có những sinh linh, họ không nhìn thấy bạn và bạn cũng không nhìn thấy họ. Họ đã lựa chọn việc sinh sống trong một cửa sổ tri giác khác. Bạn có hiểu không, bạn thân mến của tôi?"
Barbara: "Không, tôi mệt quá. Cuộc trò chuyện này tuyến tính quá .
Heyoan:"Đó là do chúng ta lại đem thông tin này nhét vào tri giác chật hẹp của mình. Hãy để cho tri giác của bạn mở rộng ra như chúng tôi đã dẫn dắt bạn tới một địa hạt khác tràn đầy ánh sáng. Khi bạn vào căn phòng này, bạn sẽ thấy nhẹ nhõm, vui vẻ..."
Từ đây tôi được dẫn vào những địa hạt mỗi lúc một cao hơn, địa hạt sau lộng lẫy hơn địa hạt trước và cũng khó cảm nhận hơn, càng về sau càng có vẻ loãng hơn và ít có hình thù hơn.
Heyoan, hướng đạo của tôi, dẫn tôi đi. Chúng tôi lên cao tới nơi mà tôi có thể cảm nhận được, đến điểm này Heyoan bảo:"Chúng ta đang ở ngưỡng cửa của Cõi linh thiêng, nơi mà con người mong mỏi được vào".
Tôi có thể thấy các kiếp trước của tôi bồng bềnh phía dưới như mùi hương nhài thoang thoảng trong không khí ban đêm. Như mọi người, tôi cảm thấy một sức cuốn hút ngoái nhìn lại vào thực tại. Mỗi lần như vậy, tôi lại cảm thấy sức cuốn hút này như dịu đi. Tôi cố gắng để giữ lấy cảm giác được tồn tại bên ngoài Barbara, bên ngoài thời gian, bên ngoài cuộc đời....
Tôi tìm cách đi vào cửa của Cõi linh thiêng.
Heyoan:"Vấn đề không phải ở chỗ tìm cách đi vào mà là để cho bản thân có mặt ở nơi dành sẵn cho mình. Ở đây có một căn phòng kỳ lạ. Nó là trạng thái tồn tại bên ngoài thời gian và không gian. Bạn không cần phải vội. Đây là cái mà linh hồn đòi hỏi."
Sau đó tôi thấy mình đi vào một cái cửa giữa hai chân của con Đại nhân sư. Heyoan ngồi trên một chiếc ngai, trước mặt tôi.
Heyoan:"Bạn thân mến, vậy là khi bạn nói về chữa trị, hãy hiểu rằng chữa trị mở các cánh cửa tri giác đến mức mà con người có thể đi vào Cõi linh thiêng và làm thành một với Đấng sáng tạo. Không có gì hơn nó, không còn gì khác nó. Nó là một quá trình tuần tự hướng về phía ấy. Soi sáng là mục tiêu; chữa trị là sản phẫm phụ. Do đó, bất cứ lúc nào mà một linh hồn đến với bạn xin chữa trị, thì bạn hãy hiểu sâu bên trong rằng đó là cái mà linh hồn đòi hỏi.
"Hãy nhớ rằng bất cứ lúc nào có ai đó đến nhờ bạn giúp đỡ hoặc chữa trị thì những lời lẽ của họ đi qua cửa sổ tri giác của họ. Ô cửa có thể hẹp, có thể rộng. Một ngón chân đau, một căn bệnh đe dọa tính mạng, hoặc là đi tìm chân lý, điều mà họ thỉnh cầu đi qua cửa sổ tri giác, nhưng cái mà ta cần cung cấp cho họ chỉ đơn giản là: Câu trả lời theo mong ước của linh hồn. Linh hồn nói:"Hãy giúp tôi tìm ra đường trở lại nhà. Hã giúp tôi tìm ra đường đi vào Cõi linh thiên đi vào nơi yên bình qua năm tháng, đi vào Cơn gió thì thầm chân lý qua nhiều thế kỷ".
Tới điểm đó của buổi thiền định, tôi rùng mình và khóc vì sung sướng. Heyoan  thường bảo tôi rằng nghĩa của từ Heyoan là "Cơn gió thì thầm chân lý qua nhiều thế kỷ". Bấy giờ tôi đã hiểu. Qua thiền định Heyoan đã dẫn dắt tôi đến chỗ quan niệm rằng tôi và Heyoan là một. Tôi có thể trải nghiệm điều này trong từng tế bào của thân thể mình rằng tôi là Chân lý thì thầm qua nhiều thế kỷ.
Heyoan nói tiếp:"Và vì vậy mà tôi ngồi đây, Heyoan, mũ miện đầy châu ngọc, mỗi một viên ngọc là một chân lý, một chân lý đã được biết. Vì vậy mà tôi tồn tại, đã từng tồn tại và sẽ luôn luôn tồn tại: Vượt ra ngoài không gian và thời gian, vượt ra ngoài hỗn loạn; hiển hiện tuy vẫn giấu hình: Được biết rồi mà vẫn chưa ai hay. Và vì vậy, xin mời các bạn hãy ngồi vào đây, từng người một. Bạn chỉ đơn giản ước mong được biết điều này, từ chỗ bạn đứng bên trong tri giác hạn hẹp của bạn."
Điểm lại Chương 20
1. Hãy giải thích quan niệm về cửa sổ tri giác.
Để làm động não
2. Đã có mô tả của Heyoan về thực tại, bạn hãy luận bàn về mối quan hệ giữa bức tường khiếp sợ bên trong của bạn (mô tả trong Chương 14), bức tường giữa người mà bạn nghĩ là bạn và con người đích thực của bạn; bức màn che giữa thế giới tâm linh và thế giới vật chất và bức màn che giữa sống và chết.
3. Chết là gì?
4. Từ lời tuyên bố vừa rồi của Heyoan, mối quan hệ giữa hướng đạo của bạn và bạn là gì? Điều đó khác với bản ngã cao cấp của bạn như thế nào? Tia sáng siêu phàm của bạn?
Chương 21

PHẦN V
 
CHỮA TRỊ TÂM LINH 
 
„ Ngay cà những điều huyền diệu  vĩ đại hơn thế này, ta cũng sẽ thực hiện . „ 
 
Jesus
 
Nhập đề 
 
TRƯỜNG NĂNG LƯỢNG CỦA BẠN LÀ CÔNG CỤ CỦA BẠN 
 
Do chỗ chúng ta đã có được một quan niệm đúng đắn về chữa trị ở đầy đủ các mức cá nhân, con người, khoa học và tâm linh, chúng ta hãy khảo sát tỉ mỉ các kỹ thuật chữa trị khác nhau mà tôi đã học được trong suốt những năm tháng thực hành của mình.
Bao giờ cũng vậy, chữa trị bắt đầu tại nhà. Điều cần thiết trước nhất đối với thầy chữa là chăm nom sức khỏe cho bản thân. Nếu bạn tiến hành chữa trị mà không lo giữ gìn sức khỏe thì bạn sẽ dễ dàng bị ốm hơn ở bất cứ hoàn cảnh nào. Bởi vì chữa trị đòi hỏi nhiều thao tác của trường năng lượng, thêm vào đó là tầm quan trọng của nó đối với đời sống của chính bạn.
Điều tôi muốn nói ở đây là: kèm theo việc bạn giữ cho mình được khỏe mạnh và cân bằng, trường năng lượng của bạn sẽ được sử dụng như một ống dẫn các năng lượng chữa trị cần thiết cho những người khác. Có thể trường năng lượng của bạn không nhất thiết cần đến những tần số mà bạn sẽ truyền đi, nhưng dù thế nào chăng nữa nó cũng phải truyền những tần số ấy. Để truyền một tần số nào đó cần thiết khi chữa trị, trường năng lượng của bạn phải rung động với tần số này hoặc với họa ba của nó. Như vậy là, để thực hiện việc chữa trị, bạn sẽ cho chạy trường năng lượng của mình như một cái xe lăn. Bạn sẽ thường xuyên biến đổi tần số rung động của nó. Bạn sẽ thường xuyên truyền những cường độ ánh sáng khác nhau. Điều đó sẽ tác động đến bạn. Sẽ là tốt nếu nó thúc đẩy quá trình tiến hóa của chính bạn, vì những thay đổi về tần số và cường độ sẽ bẻ gãy các mô hình kìm nén thông thường của bạn và sẽ giải tỏa các tắc nghẽn trong trường năng lượng của bạn. Nhưng bạn sẽ bị kiệt sức nếu bạn không giữ mình trong điều kiện tối ưu . Trong chữa trị, bạn không sản sinh ra năng lượng, mà là bạn truyền, nhưng trước tiên bạn phải nâng tần số của mình lên bằng tần số mà bệnh nhân cần để thu góp năng lượng từ trường  năng lượng vũ trụ. Việc này được mệnh danh là cảm ứng họa ba và đòi hỏi nhiều năng lượng cũng như sự tập trung để thực hiện. Chừng nào mà thế năng lượng của bạn cao bằng của bệnh nhân là bạn sẽ truyền cho họ. Tuy nhiên, nếu bạn cứ cố tiến hành chữa trị khi bạn rất mệt, thì thế năng lượng mà bạn sản sinh ra có thể yếu hơn của bệnh nhân. Dòng chảy đi từ thế cao sang thế thấp. Theo cách đó, bạn có thể chuốc phải những năng lượng âm tính của bệnh tật từ bệnh nhân. Nếu bạn cực khỏe thì bộ máy của bạn sẽ thanh toán chúng ngay bằng cách nạp năng lượng cho chúng hoặc đẩy lùi chúng. Còn nếu bạn bị kiệt sức, có thể bạn phải mất nhiều thời gian hơn trong việc thanh lọc những năng lượng thấp mà mình chuốc phải. Nếu bạn sẵn có khuynh hướng dễ mắc một bệnh đặc biệt nào đó, bạn có thể làm trầm trọng thêm tình trạng của mình. Mặt khác, nếu bạn chăm lo đến bản thân thì việc chữa trị cho ai đó - bị các bệnh đặc biệt mà bạn vốn có khuynh hướng dễ mắc - sẽ giúp bạn rất nhiều trong việc học cách sản sinh ra những tần số cần thiết cho việc chữa trị.
Các nghiên cứu của Hiroshi Motoyama đã tiến hành đo đạc cường độ các kinh mạch châm cưú của thầy chữa và bệnh nhân trước và sau khi chữa trị. Nhiều trường hợp sau khi chữa trị, cường độ những kinh mạch đặc hiệu cho một số cơ quan của thầy chữa xuống thấp. Nhưng sau một vài giờ các thầy chữa khôi phục lại cường độ ban đầu của các kinh mạch này. Motoyama cũng cho thấy là thường kinh Tâm của thầy chữa có cuờng độ mạnh hơn sau khi tiến hành chữa trị, điều này chứng tỏ rằng luân xa tim luôn được sử dụng trong chữa trị, như sẽ được luận bàn ở các chương tiếp theo.
Trong phần sắp tới, tôi sẽ luận bàn về những kỹ thuật chữa trị cho từng vầng hào quang, giới thiệu một vài ví dụ về chữa trị và cung cấp các kỹ thuật tự chữa trị của thầy chữa.
CHUẨN BỊ CHO VIỆC CHỮA TRỊ  
Chuẩn bị thầy chữa 
 
Trong khi chuẩn bị chữa trị, trước tiên thầy chữa phải khai mở và đem bản thân mình đứng về phía các lực vũ trụ. Điều này không chỉ có ý nghĩa trước khi chữa trị mà có ý nghĩa trong cuộc đời nói chung của nhà chữa trị. Thầy chữa phải hiến dâng cho chân lý và phải hết sức trung thực đối với bản thân trong mọi lĩnh vực cuộc sống của mình. Thầy chữa cần có sự ủng hộ của bạn bè và một số hình thái kỷ luật tâm linh hoặc quá trình thanh kiết hóa. Thầy chữa cần có các thầy dạy tâm linh và thầy dạy người trần. Thầy chữa phải giữ cho thân thể khỏe mạnh qua tập luyện và chế độ ăn bổ dưỡng cân đối ( bao gồm nhiều vitamin và chất khoáng, những thứ được sử dụng nhiều hơn khi cho chạy năng lượng cao ), nghỉ ngơi và giải trí. Với việc dinh dưỡng này, thầy chữa giữ được cổ xe thể chất của bản thân trong điều kiện cho phép thầy chữa nâng cao các rung động của mình lên để tỏa vào trường năng lượng vũ trụ và các năng lượng chữa trị tâm linh bấy giờ sẽ tuôn chảy qua thầy chữa. Trước tiên thầy chữa phải nâng cao các rung động của bản thân để liên kết với các năng lượng chữa trị trước khi tiến hành dẫn kênh.
Trước khi bắt đầu một ngày chữa trị, tốt nhất là tập thể dục lúc sáng sớm cũng như tiến hành thiền định để bản thân tập trung và khai mở các luân xa. Việc này không đòi hỏi nhiều thời gian. Ba mươi hay bốn mươi phút là đủ. Các bài tập sau đây là những những bài tập mà tôi thấy rất hữu hiệu. Tôi thường kỳ thay đổi chúng cho phù hợp với những nhu cầu thường xuyên thay đổi trong hệ thống năng lượng của tôi.
 
Những bài tập hằng ngày của thầy chữa để khai mở các kinh mạch châm cứu 
 
1. Nằm ngửa thẳng lưng, hai tay dọc thân, hai lòng bàn tay để ngửa. Chuyển dịch chân nhẹ nhàng sang bên để có được tư thế thoải mái, Nhắm mắt lại. Thư giãn toàn thân bằng cách tập trung lên từng phần, lần lượt phần nọ tới phần kia. Thở tự nhiên. Tập trung hơi thở và đếm - một vào, một ra, hai vào, hai ra, cứ thế tiếp tục - trong năm phút. Nếu tâm trí bạn bắt đầu nghĩ lan man thì hãy cho đếm trở lại, nếu quên mất số đếm, bạn hãy đếm lại từ số một.
Khi bạn giữ được chú ý vào việc đếm nhịp thở trong một vài phút, tâm trí và thân thể của bạn sẽ dần dần thư giản.
2. Bài tập tốt nhất có thể tiến hành trước khi bạn ra khỏi giường ( nếu điều này không quấy rầy người bạn chăn gối, tuy nhiên cũng sẽ gây phiền hà đấy ). Nằm ngửa thẳng lưng, dang rộng hai cánh tay cho thẳng góc với thân, và co gối lên trong khi bàn chân vẫn áp sát mặt giường. Giữ cho vai thõng, để cho gối đổ sang phải trong khi bạn quay đầu nhìn sang trái. Bây giờ hãy đưa gối lên và để cho chúng đổ về bên trái trong khi bạn quay đầu về bên phải. Lặp lại động tác này cho đến khi lưng của bạn cảm thấy giãn rộng ra.
Các bài tập về khớp đặc biệt tốt cho việc tạo ra một dòng chảy nặng lượng uyển chuyển trên các kinh mạch châm cứu thông qua việc điều chỉnh các khớp. Bởi vì toàn bộ dòng chảy của các kinh mạch đều qua khớp, cho nên việc cử động khớp sẽ kích hoạt các kinh mạch.C ác bài tập về khớp được Hiroshi Motoyama phát triển để khai mở các kinh mạch châm cứu. Chúng được trình bày trong cuốn sách nhỏ của ông nhan đề Những mối quan hệ chức năng giữa Yoga Asanas và các kinh mạch châm cứu.
3. Ngồi thẳng lưng trên sàn nhà, hai chân duỗi thẳng ra phía trước. Áp hai bàn tay lên sàn nhà, đàng sau hông, và ngả người về phía sau, dùng hai cánh tay duỗi thẳng làm điểm tựa. Hãy tập trung chú ý vào các ngón chân. Chỉ cử động các ngón của từng bàn một. Từ từ gập và duỗi các ngón chân mà không nhúc nhích cẳng chân hoặc cổ chân. Lặp lai mười lần. Xem hình 21-1A.
4. Vẫn giữ tư thế mô tả trên. Gập và duỗi tối đa các khớp cổ chân. Lâp lại mười lần. Xem hình 21-1B
5. Bạn đang ở tư thế ngồi nói ở mục 3. Giạng nhẹ hai chân. Giữ cho gót chân áp sát sàn nhà, xoay cổ chân mười lần theo mỗi hướng.
6. Giữ tư thế ngồi ban đầu, co chân phải lên, càng áp sát vào khoeo càng tốt, đưa gót chân vào sát mông phải. Duỗi thẳng chân phải mà không để gót chân hoặc ngón chân chạm sàn nhà. Lặp lại mười lần, rồi tiến hành tương tự đối với chân trái. Xem hình 21-1C.
7. Cũng trong tư thế ngồi như trên, dùng hai tay giữ cho bắp đùi phải sát với thân, rồi xoay tròn cẳng chân quanh gối, mười lần thuận chiều kim đồng hồ và mười lần ngược lại. Lặp lại tương tự đối với chân trái.
8. Co chân trái và đặt bàn chân trái lên bắp đùi phải. Dùng tay trái giữ gối trái và đặt tay phải lên cổ chân trái. Nhẹ nhàng dùng tay trái ấn cho chân trái lên xuống, trong khi giữ các cơ ở chân trái càng thư giản càng tốt. Lặp lại tương tự đối với gối phải. Xem hình 21-1D.
9. Ngồi ở tư thế như mục 8, xoay gối phải xung quanh khớp hông phải mười lần thuận chiều kim đồng hồ và mười lần ngược lại. Lặp lại tương tự đối với gối trái. Xem hình 21-1E.
10. Ngồi như tư thế ban đầu, hai chân duỗi thẳng, giơ hai cánh tay ra trước ngang tầm vai. Duỗi và co các ngón của cả hai tay. Nắm chặt các ngón lại ôm lấy ngón cái làm thành quả đấm. Lặp lại mười lần. Xem hình 21-1F.
11. Vẫn giữ tư thế ở mục 10.  Co và duỗi hai cổ tay. Lặp lại mười lần. Xem hình 21-1G.
12: Từ tư thế ở mục 10, xoay hai cổ tay mười lần thuận chiều kim đồng hồ và mười lần ngược lại.
13. Vẫn ở tư thế như mục 10, mở rộng bàn tay cho lòng bàn tay ngửa lên trên. Gập hai khuỷu tay lại, cho các đầu ngón tay chạm vai, rồi duỗi ra. Lặp lại mười lần và làm động tác đó mười lần nhưng với tay nọ vai kia. Xem hình 21-1H
14. Giữ tư thế trên, các đầu ngón thường xuyên chạm vai, nâng hai khuỷu lên càng cao càng tốt. Xong hạ xuống thấp. Lặp lại mười lần. Rồi hướng các khuỷu tay về phía trước. Lặp lại. Xem hình 21-1I
15. Vẫn trong tư thế ở mục 14. xoay tròn hai khuỷu tay quanh khớp vai. Làm mười lần thuận chiều kim đồng hồ và mười lần ngược lai. Xoay vòng tròn càng rộng càng tốt, sao cho hai khuỷu tay gặp được nhau trước ngực. Xem hình 21-1J.
16. Bây giờ làm động tác nằm ngửa-ngồi dậy, mỗi lần như vậy lại thở ra. Làm ít nhất mười lần lúc bắt đầu. Rồi làm tới hai chục lần.
17. Rướn người ra để tay chạm vào các ngón chân mà không co chân. Thực hiện động tác này trong tư thế nằm ngửa-ngồi dậy, trong khi vẫn giữ hai chân duỗi thẳng ra phía trước. Làm mười lần. Bây giờ hãy nghiêng người và cầm các ngón chân mà không co gối. Làm trong ba phút không dậy.
18. Giạng rộng hai chân đến mức tối đa và lặp lại bài tập trên đây, đầu tiên là với tay tới các ngón chân trái, sau đó chuyển sang phải và với tới các ngón chân phải. Bây giờ lặp lại bằng cách với thẳng tới trước mặt. Giữ tư thế này trong ba phút không dậy.
19. Xoay đầu và cổ một số lần. Lúc đầu mặt nhìn lên nhìn xuống. Lặp lại mười lần. Rồi nhìn sang một bên mười lần. Sau đó xoay đầu, trước tiên thuận chiều kim đồng hồ, rồi theo chiều ngược lại một số lần cho đến khi cổ cảm thấy mềm mại hơn.
20. Đứng dậy. Thẳng người, hai chân giạng. Nghiêng người sang trái. Đưa tay phải qua đầu vắt sang trái. Lặp lại một số lân. Sau đó nghiêng người sang phải, đưa tay trái qua đầu vắt sang phải. 

Những bài thể dục hằng ngày để khai mở và nạp các luân xa 
Có ba nhóm bài tập khác nhau tôi đã dùng để khai mở và nạp các luân xa.
- Nhóm bài thể dục thứ nhất khai mở rất tốt các luân xa ở ba mức thấp nhất của hào quang.
- Nhóm thứ hai khai mở tốt các luân xa ở mức tinh tú, và nhóm thứ ba, kết hợp thở với tư thế, khai mở các luân xa ở các mức cao nhất của hào quang.
21. Những bài thể dục để khai mở và nạp các luân xa ( các mức 1-3 của trường hào quang ). Các bài tập này được trình bày trong hình 21-2.
Luân xa 1. Đứng giạng rộng hai chân, các ngón và gối hướng ra ngoài để cho hai gối được thoải mái. Co gối xuống càng thấp càng tốt. Cuối cùng sẽ có thể xuống thấp đến mức mông đít thấp ngang mức với gối. Cử động lên xuống một số lần. Rồi thêm động tác đu đưa khung chậu. Đưa khung chậu tối đa về phía trước và tối đa về phía sau. Chú trọng động tác đưa ra đàng trước. Đu đưa khung chậu ra sau và ra trước bằng cách hạ người thấp xuống ba lần. Giữ tư thế thấp và đu đưa ra sau và ra trước ba lần trong khi gập gối, rồi đu đưa ra sau và ra trước ba lần trong khi đứng lên. Động tác quan trọng nhất của bài tập này là đu đưa khi gập gối xuống thấp nhất. Lặp lại toàn bộ động tác ít nhất ba lần.
Luân xa 2. Đứng, hai chân giạng bằng hai vai và song song với nhau. Đu đưa khung chậu ra sau và ra trước, hai gối hơi gập lại. Lặp lại vài ba lần.
- Bây giờ hãy làm ra vẻ như bạn đang ở trong một hình trụ cần được mài nhẵn. Hãy dùng hai mông đít mài nhẵn nó. Đặt hai bàn tay lên hai mông, rồi xoay hai tay theo vòng tròn trên đó, vừa làm vừa chắc chắn là mài mòn được tất cả các mặt của hình trụ đó một cách đều đặn.
Luân xa 3. Nhảy. Cần một người giúp. Bạn hãy nắm chắc hai bàn tay của người đó làm chỗ dựa mà nhảy lên cao, hai gối co tối đa áp sát vào ngực. Nhảy liên tục không nghĩ trong vài ba phút. Nghỉ. Khi nghỉ không cúi người xuống. Hãy chuyển chỗ, làm chỗ dựa cho người kia nhảy.
Luân xa 4. Đây là một bài tập tư thê cùng cỡ. Nằm phủ phục, gối gập, mông cao, tay úp sấp duỗi về phía trước như Hình 21-2. Trong tư thế này, khuỷu tay của bạn không chạm sàn nhà. Cánh tay được sử dụng như điểm tựa. Thay đổi góc của chân và mông cho đến khi bạn cảm thấy có áp lực giữa hai xương vai ( những người có cơ vai lớn sẽ thấy áp lực này nhiều hơn, phải cẩn thận ). Khi đã thành công trong việc tạp áp lực giữa hai xương vai, hãy đặt áp lực cùng cỡ vào chỗ đó bằng cách nhoài cả người về phía trước một lúc, rồi lại đưa người về phía sau. Bạn có thể làm động tác đó bằng hông và chân. Bài tập này tác động lên phía sau của luân xa tim hoặc lên trung tâm ý chí.
- Đối với phía trước của luân xa tim, bạn hãy tìm một vật rộng và tròn như cái thùng, tấm đệm đi văng hay ghế năng lượng sinh học để ưỡn ngực về phía trước. Hãy tựa lưng lên đó mà ưỡn ngực về phía trước, hai bàn chân bám chắc vào mặt sàn. Thư giãn và để cho các cơ ngực lỏng ra.
Luân xa 5. Xoay đầu và cổ. Xoay theo các hướng: cúi gập, ngửa lên, quay trái, quay phải, nghiêng trái, nghiêng phải. Xoay tròn sang phải rồi ngược lại.
Luân xa họng này cũng đáp ứng rất tốt đối với âm thanh. Bạn hãy hát lên ! Hoặc tạo ra bất cứ tiếng động nào mình thích nếu bạn không biết hát.
Luân xa 6. Lặp lại các động tác như với luân xa 5 và sử dụng mắt nhiều hơn.
Luân xa 7. Dùng tay phải xoa đỉnh đầu theo chiều kim đồng hồ.
22. Mường tượng để khai mở các luân xa ( mức 4 của trường hào quang ) 
Để thực hiện bài tập này, bạn hãy ngồi trên ghế thoải mái hoặc trong tư thế hoa sen trên một chiếc gối đặt ở sàn nhà. Giữ lưng thật thẳng. Trước tiên, sau khi tĩnh tâm bằng một trong các bài tập thiền định, hãy tập trung chú ý vào luân xa 1, xem nó là một cuộn xoáy ánh sáng màu đỏ xoay thuận chiều kim đồng hồ ( nhìn từ bên ngoài vào thân thể thấy thuận chiều ). Nó hướng thẳng xuống bên dưới người bạn, hình nón xoay tít mà đáy mở về phía mặt đất và đỉnh chạm vào cuối cột sống. Trong khi theo dõi nó quay, hãy hít vào và thở ra màu đỏ. Lúc hít vào, hãy mường tượng hơi thở có màu đỏ. Lúc thở ra thì không mường tượng, chỉ theo dõi xem đó là màu gì. Lặp lại cho đến khi thấy được màu đỏ cả lúc hít vào lẫn lúc thở ra. Nếu màu đỏ lúc thở ra nhạt hơn hoặc xỉn, có nghĩa là cần phải cân bằng các năng lượng màu đỏ. Nếu màu nhạt, cần thêm màu đỏ trong trường năng lượng. Nếu màu xỉn, cần thanh lọc luân xa bên dưới. Cứ làm như vậy bằng cách lập lại bài tập cho đến khi màu vào và màu ra như nhau. Điều này là xác thực cho mọi luân xa.
Trong khi duy trì bức tranh nói trên về luân xa 1, hãy chuyển dịch tới luân xa 2 nằm ở trên xương mu chừng 2 in. Hãy mường tượng ra hai cuộn xoáy, một ở phía trước, một ở phía sau. Hãy nhìn xem chúng xoay thuận chiều, với màu đỏ-vàng cam sáng chói. Hít vào màu đỏ-vàng cam. Thở ra cũng màu đỏ-vàng cam. Lặp lại. Kiểm tra để thật chắc chắn là màu hít vào và màu thở ra như nhau, trước khi tiếp tục chuyển dịch.
Trong khi vẫn giữ mường tượng về hai luân xa đầu tiên đó, bạn hãy chuyển dịch tới luân xa 3 nằm ở đám rối thái dương. Mường tượng tại đây hai cuộn xoáy màu vàng đang xoay. Hít vào màu vàng. Thở ra cũng màu vàng. Lặp lại cho đến khi màu vàng sáng lên cả lúc hít vào lẫn lúc thở ra.
Hãy chuyển dịch đến luân xa 4. Hãy nhìn xem các cuộn xoáy màu lục đang xoay thuận chiều kim đồng hồ. Hít vào màu lục và thở ra cũng màu lục cho đến khi cân bằng màu sắc. Hãy nhìn xuống phía dưới để thật chắc chắn thấy các luân xa khác ( vừa mới được bạn nạp năng lượng ) vẫn đang xoay, trước khi chuyển dịch đến luân xa 5.
Tại luân xa 5 hãy hít vào cũng như thở ra màu xanh qua các cuộn xoáy đang xoay thuận chiều kim đồng hồ.
Tại luân xa con mắt thứ ba ( tức luân xa 6 - ND ), hãy nhìn xem các cuộn xoáy màu tím đang xoay thuận chiều kim đồng hồ phía trước và phía sau đầu. Lặp lại các bài tập thở này.



Sau đó chuyển dịch đến luân xa 7. Nó có màu trắng sữa, khi trú ở đỉnh đầu, xoay thuận chiều kim đồng hồ. Hãy hít vào màu trắng. Thở ra cũng màu trắng. Lặp lại. Hãy nhìn xem tất cả bảy luân xa đều xoay thuận chiều kim đồng hồ. Hãy nhìn xem dòng năng lượng thẳng đứng tuôn chảy lên xuống dọc cột sống của bạn. Nó rung động theo hơi thờ của bạn. Lúc bạn hít vào, nó dâng lên. Lúc bạn thở ra, nó hạ xuống. Hãy nhìn xem tất cả các luân xa liên kết với nó tại các đầu mút của chúng, có luân xa 7 tạo nên lối vào và lối ra ở đỉnh, có luân xa gốc tạo nên lối vào và lối ra ở nền, để cho năng lượng tuôn chảy qua trường năng lượng của bạn. Hãy nhìn xem năng lượng rung động tuôn chảy qua khắp tất cả các luân xa khi bạn hít vào. Toàn bộ trường năng lượng của bạn lúc này tràn đầy năng lượng ánh sáng. Đây là bài tập tốt cần thực hiện trước khi tiến hành chữa trị, để khai mở và nạp năng lượng cho tất cả các luân xa của bạn.
23. Tập thở và tập tư thế để nạp và khai mở các luân xa ( các mức 5-7 của trường hào quang )
Những bài tập mạnh mẽ nhất mà tôi đã thấy dùng để nạp năng lượng cho trường hào quang, làm nó sáng lên, thanh lọc nó và tăng lực cho nó là những bài tập do các nhà Yoga Kundalini dạy, những người này tập trung vào tư thế, hít thở và tính mềm dẻo của cột sống. Tôi khuyên bạn nếu có dịp tốt thì trực tiếp học một tôn sư Kundalini. Nếu không có điều kiện đó thì sau đây là một số bài tập của họ mà tôi đã tinh giản đi để bổ sung vào cuốn sách, như ở Hình 21-3.
- Luân xa 1. Ngồi trên sàn nhà, gối gập lại, gót chân đặt dưới mông. Để lòng bàn tay áp lên bắp đùi. Ưỡn cột sống về phía khung chậu lúc hít vào và cong cột sống về phía sau lúc thở ra. Nếu bạn thích, có thể dùng một câu thần chú để niệm vào mỗi động tác thở. Lặp lại một số lần.
- Luân xa 2. Ngồi xếp bằng vắt tréo chân trên sàn nhà. Hai tay nắm hai cổ chân và hít vào thật sâu. Ưỡn cột sống ra trước và nâng lồng ngực lên, quay chóp của khung chậu ra sau. Khi thở ra, cong cột sống ra sau và ưỡn khung chậu ra trước, gần với các " xương tọa ". Lặp lại một số lần. Niệm thần chú nếu bạn thích.
- Luân xa 2 - Tư thế khác. Nằm ngửa. Chống hai khuỷu tay lên. Giơ thẳng hai chân lên khỏi mặt sàn chừng 1 phút. Giạng rộng hai chân ra và hít vào, lúc thở ra thì khép hai chân lại cho tréo nhau, trong khi gối vẫn thẳng. Lặp lại một số lần. Nâng cao chân thêm một chút rồi tập tiếp. Tập cho đến khi chân giơ cao cách màn sàn khoảng 2 1/2 inc., sau đó lại hạ thấp dần và tập như trên. Nghĩ. Lặp lại một số lần.
- Luân xa 3. Ngồi vắt chéo chân, đưa cánh tay lên ngang vai, gập khuỷu cho các ngón tay chạm vai. Hít vào và xoay ngược sang trái, thở ra và xoay người sang phải. Thở thật dài và sâu. Chú ý giữ thẳng cột sống. Lặp lại một số lần và theo chiều ngược lại. Lặp lại nữa. Nghỉ một phút. Lặp lại toàn bộ bài tập ở tư thế quỳ.
- Luân xa 3 - Tư thế khác. Nằm ngửa hai chân duỗi thẳng sát nhau và giơ gót chân lên khỏi mặt sàn 6 in. Nhấc đầu và vai lên khỏi mặt sàn 6 in, nhìn xuống ngón chân, cánh tay duỗi thẳng, ngón tay hướng xuống chân. Ỡ tư thế này, thở nhẹ bằng mũi trong 30 lần đếm. Thư giãn, nghỉ trong 30 lần. Lặp lại một số lần.
- Luân xa 4. Ngồi vắt tréo chân, giơ cánh tay ngang vai, gập khuỷu cho cẳng tay ra trước, các ngón tay ngoắc chặt lấy nhau ngang tầm trung tâm tim. Đưa hai khuỷu tay lên xuống theo kiểu bập bênh, đồng thời thở thật dài và sâu. Tiếp tục một số lần, hít vào và thở ra, các ngón tay ngoắc chặt kéo lên nhau. Thư giãn một phút. Lặp lại bài tập ở tư thế ngồi gập gối, gót chân đặt dưới mông. Bài tập này nâng cao nâng lượng.
Phải chắc chắn là khung chậu tóp lại.
- Luân xa 5. Ngồi vắt tréo chân, bàn tay áp lên gối, tay duỗi thẳng. Bắt đầu cong phần trên cột sống. Hít vào về đàng trước, thở ra về đàng sau. Lặp lại một số lần. Nghỉ.
Bây giờ cong cột sống bằng cách nhô vai lên đồng thời hít vào, và hạ vai xuống đồng thời thở ra. Lặp lại một số lần. Hít vào và giữ 15 giây khi hai vai nhô cao. Thư giãn.
Lặp lại các bài tập nói trên trong tư thế ngồi gập gối, gót chân đặt dưới mông.
- Luân xa 6. Ngồi vắt tréo chân, giơ cánh tay ngang vai, gập khuỷu cho cẳng tay ra trước, các ngón tay ngoắc chặt lấy nhau ngang tầm với họng. Hít vào, nín thở, sau đó nén bụng và các cơ thắt, đẩy năng lượng đi lên, như thể bạn đang bóp thuốc đánh răng ra khỏi ống. Thở ra đẩy năng lượng ra khỏi chỏm đầu, trong khi giơ hai tay ngoắc chặt nhau lên trên đầu. Lặp lại.
Lặp lại bài tập này trong tư thế ngồi gập gối, gót chân đặt dưới mông.
- Luân xa 7. Ngồi vắt tréo chân, tay duỗi thẳng hướng lên trời. Hai ngón trỏ áp chặt và duỗi, còn các ngón khác đan lấy nhau. Hít vào bằng cách giơ cao cái " mỏ hàn " đó lên cao, miệng nói " sat ". Thở ra, miệng nói " nam " khi thư giản " mỏ hàn ". Lặp lại một số lần với nhịp thở nhanh. Sau đó, thở vào và nén năng lượng từ nền cột sống đi lên chỏm đầu băng cách trước tiên nén và giữ các cơ thắt, sau đó nén và giữ các cơ bụng. Nín thở rồi thở ra trong khi vẫn giữ toàn bộ trạng thái co cơ. Thư giãn. Nghỉ. Nếu câu thần chú " sat, nam " không thích hợp thì bạn dùng một câu thần chú khác.
Lặp lại, trong tư thế ngồi gập gối, gót chân đặt dưới mông. Nghỉ.
Lặp lại bài tập nhưng không dùng thần chú. Thay vào đó, hãy thở nhanh nông bằng mũi.
- Luân xa 7 - Tư thế khác. Ngồi vắt tréo chân. Giơ hai tay lên 60 độ, khuỷu và cổ tay duỗi thẳng, hai lòng bàn tay đối diện nhau. Thở nhẹ bằng mũi và để hơi thở cọ vào phần sau trên của họng khoảng một phút. Hít vào, nín thở và bơm cho bụng phồng lên xẹp xuống 16 lần. Thở ra, thư giãn. Lặp lại hai hoặc ba lần. Nghỉ.
Thiền định thở màu để nạp hào quang 
Ở tư thế đứng, hai bàn chân song song, hai vai mở rộng tự nhiên, từ từ khuỵu gối xuống rồi lại đứng lên. Mỗi lần khuỵu gối thì thở ra. Mỗi lần đứng thẳng lên thì hít vào. Để cho người càng thấp xuống càng tốt nhưng không được nhấc gót lên. Để cánh tay thư giãn. Giữ lưng thẳng và đừng cúi về phía trước. Để cho nửa dưới của khung chậu nhô ra phía trước một chút.
Bây giờ duỗi hai cánh tay ra phía trước, lòng bàn tay úp xuống. Làm thêm một cử động hình tròn bằng hai bàn tay, phối hợp với động táclên xuống đã làm. Trong cử động đi lên, hai cánh tay càng đưa thẳng ra xa càng tốt. Khi đạt tới đỉnh thì thu hai cánh tay về phía thân ( lòng bàn tay vẫn úp xuống ) và để cho chúng sát vào người trong cử động đi xuống. Khi đạt tới đáy thì lại duỗi cánh tay ra ( Xem Hình 21-4 ).
Hãy mường tượng thêm vào động tác này. Bạn sẽ hít vào những màu từ mặt đất đi lên qua bàn tay và qua chân cũng như từ không khí bao quanh. Khi thở ra, bạn sẽ thở ra các màu đó. Thở một số lần với mỗi màu.
Hãy bắt đầu với màu đỏ. Khi đạt tới đáy của động tác nói trên, hít vào màu đỏ. Hãy nhìn xem toàn bộ quả cầu của hào quang bạn căng đầy màu đỏ. Sau khi đạt tới đỉnh của động tác và bắt đầu đi xuống thì hãy thở ra màu đỏ đó. Bây giờ bạn hãy thử làm nửa đi. Bạn đã có thể nhìn thấy rõ ràng màu đỏ bằng mường tượng chưa? Nếu chưa thì hãy lặp lại bài tập cho đến khi nhìn thấy.



h



Phần lớn những màu mà bạn khó mường tượng ra được thường là những màu bạn cần cho trường năng lượng của mình. Một lần nữa, như ở bài tập 22, bạn chỉ theo dõi màu mà bạn thở ra thôi, chớ điều khiển nó. Khi màu đã sáng lên và rõ ra thì hãy chuyển dịch tới màu tiếp theo.
Bây giờ hãy hít vào màu vàng cam trong cử động đi lên. Hãy để cho nó vào người từ mặt đất đi lên chân, lên tay và vào người không khí bao quanh. Nếu bạn rối trí khi mường tượng trong óc những màu này thì hãy lấy một số mẫu màu mà nhìn vào, hoặc có thể sẽ dễ dàng hơn cho bạn khi làm việc này là nhắm mắt lại. Hãy lặp lại bài tập với màu vàng cam này.
Tiếp tục bài tập qua dãy màu sau đây: vàng, lục, xanh, tím và trắng. Phải chắc chắn là nhìn thấy toàn bộ hình thái quả trứng trường hào quang của bạn căng đầy từng màu trước khi chuyển dịch tới màu tiếp theo. Đây là những màu rất tốt cho mỗi luân xa. Nếu bạn muốn thêm vào cho trường hào quang của mình những rung động cao hơn thế, bạn hãy tiếp tục với các màu sau đây: ánh bạc, óng vàng, bạch kim và pha lê, sau đó lại trở về với màu trắng. Tất cả các màu ở nhóm thứ hai này sẽ có đặc tính trắng sữa.
Bài tập rung động cho việc tiếp đất 
Rung động cơ thể bạn có nghĩa là giữ cơ thể bạn trong một tư thế căng thẳng tạo ra những rung động thể chất không tuỳ thuộc ý muốn. Điều đó sẽ tăng cường dòng chảy năng lượng và giải tỏa các tắc nghẽn. Những bài tập này khá quen thuộc trong liệu pháp nòng cốt và liệu pháp năng lượng học sinh học.
Tư thế đứng, hai bàn chân song song, chiều rộng giữa hai vai bình thường. Sau khi bạn hoàn tất các bài tập nạp năng lượng cho hào quang đã nói ở trên, ban hãy đứng và lại đơn giản thở ra trong cử động đi xuống và hít vào trong cử động đi lên. Khuỵu hai gối xuống càng thấp càng tốt, để cho chi dười cảm thấy mỏi. Nếu bạn giữ như vậy được đủ lâu thì chi dưới của bạn sẽ bắt đầu rung động tự nhiên ngoài ý muốn. Nếu chưa thấy, bạn hãy tạo ra một rung động bằng cách nhún lên nhún xuống trên hai gót chân. Hãy để cho các rung động tiến dần lên phần trên của chi dưới và khung chậu. Dày công tập luyện thì những rung động này sẽ lan rộng ra toàn bộ thân thể.
Đây là phương pháp rất tốt để tạo ra dòng chảy năng lượng mạnh khắp cơ thể. Một khi đã cảm thấy điều đó, bạn có thể nghĩ ra các bài tập khiến cho bất cứ bộ phận nào trong người bạn cũng rung động, nhằm tăng cường dòng chảy năng lượng qua bộ phận đó. Trong trường hợp này, thường là người ta cần khung chậu rung động để nâng cao các năng lượng của đất tuôn chảy qua luân xa 1 và luân xa 2. Về sau, khi bạn ở vào tư thế chữa trị, bạn có thể từ từ xoay khung chậu về phía sau và về phía trước ( khi đang ngồi ), sau đó thêm một rung động nhanh gọn vào cử động xoay này. Điều đó sẽ giúp cho khung chậu rung động. Bạn sẽ cảm thấy năng lượng tăng lên tuôn chảy khắp thân thể mình.
Ngồi thiền định để tập trung 
Bây giờ bạn hãy ngồi thiền định trong 10-15 phút. Đảm bảo lưng thẳng và thoải mái. Một câu thần chú tốt để tự lặp đi lặp lại nhằm tĩnh lặng tâm trí cho việc thiền định là: " Hãy lặng im và nhận biết ta là "Thượng Đế". Bạn chỉ giữ cho ý thức mình tập trung vào câu thần chú đó. Nếu đầu óc bạn mông lung thì hãy ổn định lại đã.
Một kiểu thiền định tốt nhất khác để làm dịu tâm trí là chỉ đếm đến 10. Đếm 1 lúc hít vào,đếm 2 lúc thở ra, 3 lúc hít vào, 4 lúc thở ra, cho đến 10. Điều khó khăn là mỗi lần bạn để đầu óc mông lung và nghĩ đến chuyện khác ngoài việc đếm, thì bạn phải trở lại từ 1 và bắt đầu lại tất cả ! Kiểu thiền định này thực sự cho thấy tinh thần chúng ta ủy mị biết chừng nào ! Rất ít người đếm được đến 10 trong lần thử đầu tiên !
Giờ thì bạn đã sẵn sàng ( sau khi uống một cốc nước đầy ) để bắt đầu một ngày chữa trị.
Quan tâm đến không gian chữa trị 
Điều quan trọng là làm việc trong một căn phòng sạch sẽ đã được thanh lọc hết các năng lượng suy yếu, các viba xấu hoặc năng lượng orgone chết như Wilhelm Reich đã từng gọi. Nếu có điều kiện thì chọn một căn phòng nhiều ánh sáng mặt trời và thoáng đãng. Bạn cũng có thể xông khói để giữ sạch căn phòng bằng cách đốt cỏ thơm và tuyết tùng hoặc xô thơm và tuyết tùng theo lối cổ truyền của người da đỏ.
Đểxông khói căn phòng bằngtuyết tùng và xô thơm, bạn hãy xếp một ít tuyết tùng và xô thơm khô vào một cái thùng rồi châm lửa. Người da đỏ có tập quán dùng một cái vỏ bào ngư vào việc xông khói, để có thể tiêu biểu cho đủ cả bốn yếu tố: lửa, đất, không khí và nước. Nhưng nếu bạn không sẳn vỏ bào ngư thì có thể dùng chảo. Khi đã có nhiều tuyết tùng và xô thơm cháy, hãy dập lửa đi. Chảo có vung đậy càng tốt. Sẽ có nhiều khói tỏa ra bốn góc phòng. Tục lệ của người da đỏ là bắt đầu tại phần cực đông của ngôi nhà hoặc căn phòng rồi cho lan ra theo hướng mặt trời mọc ( thuận chiều kim đồng hồ ). Đảm bảo có một cửa ra vào bỏ ngỏ trước khi bạn bắt đầu xông khói. Khói sẽ hấp dẫn năng lượng orgone chết và đưa nó ra ngoài qua cửa đó.
Để hoàn tất việc xông khói, bạn có thể bỏ vào lửa một ít hột ngũ cốc coi như một lễ vật ta ơn. Để học được nhiều hơn về các truyền thống của người da đỏ, tôi xin giới thiệu bạn tới Bà Oh-Shinnah thuộc Four Corners Foundation. 632 Oak Street, San Francisco, California 94117. Bà Oh-Shinnah xông khói từng bệnh nhân của mình bằng cách này trước khi làm việc với họ. Điều đó thanh toán được nhiều năng lượng orgone chết trước khi bà bắt đầu công việc. Bạn có thể xông khói cho bản thân nếu tự cảm thấy có tắc nghẽn. Một số người đốt muối Epsom ( một loại muối có tác dụng tẩy nhẹ, thường dùng trong y học, công nghiệp da, công nghiệp dệt - ND ) bằng cách cho muối này vào xoong, rưới lên đó một ít rượu rồi đem đun. Khi dùng chảo như vậy thì bạn hay bệnh nhân của bạn hãy đi dạo quanh phòng.
Đồ pha lê dựng cung quanh căn phòng giúp gom năng lượng orgone chết lại. sau đó ta tẩy sạch bằng cách ngâm qua đêm trong một cái bát chứa một pint ( khoảng nửa lít - ND )nước nguồn có pha muối biển với lượng 1/4 thìa uống trà. Máy phát ion âm cũng giúp thanh lọc căn phòng. Bạn chớ bao giờ làm việc trong một căn phòng thiếu thông gió hoặc được chiếu sáng bằng ánh sáng huỳnh quang. Ánh sáng quỳnh quang phát ra một tần số gây trở ngại cho rung động bình thường của hào quang, gây nên một tần số dập trong trường năng lượng. Dãy quang phổ cũng có hại cho sức khỏe.
Nếu bạn làm việc trong một căn phòng thiếu thông gió hoặc được chiếu sáng bằng ánh sáng huỳnh quang, có thể bạn sẽ bị ốm. Bạn sẽ bắt đầu tích tụ năng lượng orgone chết vào thân thể mình, các rung động của bạn sẽ xuống thấp và ngày càng yếu dần. Cuối cùng bạn sẽ phải ngừng công việc, có thể là trong một thời gian vài ba tháng cho đến khi hệ thống năng lượng của bạn có thể tự thanh lọc. Thậm chí bạn không thể nhận biết sự suy giảm tần số năng lượng của mình vì tính nhạy cảm của bạn cũng sẽ giảm theo.
Quan tâm đến thầy chữa 
Nếu bạn phát hiện ra mình đang tích tụ các năng lượng orgone chết vào người thì, dể thanh lọc hào quang của mình, bạn hãy dành ra 20 phút để tắm trong bồn nước ấm có pha 1 pound ( khoảng 450g - ND ) muối biển và 1 pound Na bicarbonate. Việc này có thể làm cho bạn rất mệt vì nó lấy ra khỏi thân thể rất nhiều năng lượng, do đó sau khi tắm xong, bạn hãy sẳn sàng để cơ thể nghỉ ngơi nhằm tự bổ sung. Nằm dài dưới ánh nắng mặt trời sẽ giúp bạn nạp năng lượng cho hệ thống. Tắm nắng trong bao nhiêu lâu hoàn toàn tùy thuộc vào hệ thống năng lượng của bạn. Hãy có trực giác khi thân thể bạn nói là đủ rồi thì hãy tin nó. Có thể hằng tuần bạn phải tắm nhiều lần như trên để tự thanh lọc.
Thầy chữa cũng như bệnh nhân, sau mỗi buổi chữa đều phải uống một cốc đầy nước nguồn. Để nước chạy qua hệ thống năng lượng của bạn là giúp cho việc thanh thải năng lượng orgone chết và phòng ngừa phù nề. Thật là ngược đời, phù nề trước hết lại là do không uống đủ nước. Thân thể của bạn sẽ giữ nước lại trong một cố gắng lưu năng lượng orgone chết trong nước, thay vì để nó thấm sâu vào các mô của thân thể bạn.
Các tinh thể cũng giúp bảo vệ hệ thống năng lượng của thầy chữa. Có thể đeo lên đám rối thái dương một tinh thể thạch anh trong hoặc thạch anh tím để tăng lực cho trường năng lượng của bạn và làm cho nó trở nên khó thẩm lậu hơn. Thạch anh hồng giúp bảo vệ nếu được đeo lên luân xa tim. Có nhiều điều đáng nói về việc chữa trị bằng các tinh thể. Nói chung tôi sử dụng bốn tinh thể trên bệnh nhân khi chữa trị, cộng thêm những tinh thể đeo trên người bằng thạch anh tím và thạch anh hồng. Tôi cho bệnh nhân đeo ở tay ( kỉnh tâm ) một tinh thể lớn hơn thạch anh hồng và ở tay phải một tinh thể lớn thạch anh trong. Chúng thấm đẫm năng lượng orgone chết sẽ được giải tỏa khi chữa trị. Tôi dùng một tinh thể lớn thạch anh tím có chứa khoáng sắt để lên luân xa 2 hoặc luân xa 1 để giữ cho trường năng lượng của bệnh nhân rung động mạnh mẽ. Sắt giúp cho việc giữ bệnh nhân được tiếp đất. Các tinh thể có khuynh hướng giữ bệnh nhân tại thân. Thạch anh màu khói đeo lên đám rối thái dương có tác dụng tốt trong việc này.
Nếu bạn đeo tinh thể, bạn phải chắc chắn là đeo loại tinh thể thích hợp với thân thể mình. Nếu tinh thể quá mạnh, nó sẽ làm tăng các rung động của trường năng lượng và cuối cùng làm cho trường năng lượng kiệt quệ bởi vì mức chuyển hóa cơ bản của bạn sẽ không đủ mạnh để theo kịp mức mà tinh thể gây ra trên trường năng lượng của bạn, nghĩa là bạn sẽ không thể nào cung cấp đủ năng lượng cho trường năng lượng của mình để duy trì các tần số cao hơn. Cuối cùng bạn sẽ mất năng lượng. Tuy nhiên, nếu bạn chọn một tinh thể chỉ mạng hơn chút ít so với trường năng lượng của bản thân thì bạn sẽ nâng cao được trường năng lượng của bạn.
Nếu bạn đeo một tinh thể có rung động thấp hơn trường năng lượng của bản thân thì tinh thể sẽ đặt một lực cản lên nó và làm chậm các rung động của bạn. Đơn giản là bạn cần biết mỗi tinh thể ảnh hưởng đến bạn tới mức nào. Khi bạn trở nên khỏe hơn, bạn có thể đeo những tinh thể khỏe hơn. Bạn cũng sẽ cần các tinh thể khác nhau ở những thời điểm khác nhau trong đời mình, tùy theo hoàn cảnh.
Các tinh thể dưới dạng những đồ trang sức cổ hoặc vật lưu niệm đều nhuốm năng lượng của những chủ nhân trước đây đã đeo chúng, cho nên cần được làm sạch toàn bộ bằng cách ngâm trong một tuần vào một lít Anh ( bằng 1, 135 lít - ND ) nước nguồn pha 1/4 thìa uống trà muối biển hoặc vào nước biển. Nhiều cuộc hội thảo về tinh thể hiện đang được tiến hành. Tôi gợi ý với bạn là nếu muốn sử dụng tinh thể thì trước đó hãy tham dự một cuộc hội thảo và nghiên cứu về tinh thể đã.
Khi tiến hành chữa trị, tôi dùng một cái bàn xoa bóp và một cái ghế bàn viết. Như vậy tôi khỏi phải đứng cả ngày, và lưng tôi có nhiều chỗ dựa.
Các bánh xe ở ghế cho phép cử động tự do, và khi tiến hành chữa trị tôi có thể đứng hoặc ngồi cho thích hợp. Tôi cũng sử dụng dầu để xức vào chân. Điều này giúp cho năng lượng đi vào thân thể.
Một trong những cái quan trọng nhất mà thầy chữa cần có để giữ được sức khỏe là thời gian và không gian riêng tư. Điều này không dễ dàng gì, bởi lẽ phần đông thầy chữa được nhiều bệnh nhân yêu cầu. Nhất thiết ngưòi thầy chữa có thể nói: " Không, lúc này tôi cần có thời gian cho bản thân mình ", cho dù yêu cầu có lớn đến đâu chăng nữa, điều này có nghĩa là khi bạn cần thời gian cho bản thân mình thì không có vấn để gì. Nếu bạn không làm như vậy, bạn sẽ kiệt sức và dầu sao đi nữa cũng phải ngừng việc một lát. Đừng chờ đến lúc không còn gì để cho. Hãy nghỉ ngơi ngay. Hãy dành thời gian cho các sở thích và thú vui riêng khác của bạn. Điều rất quan trọng là người thầy chữa sống một cuộc sống riêng tư đầy đủ đáp ứng các nhu cầu của mình. Nếu không làm như thế, thì cuối cùng người thầy chữa sẽ tìm cách nhờ bệnh nhân giúp khi mình gặp các nhu cầu và ngày càng lệ thuộc vào bệnh nhân. Điều này sẽ gây nhiễu cho quá trình chữa trị. Quy tắc bằng vàng cho nhà chữa trị là: trước hết là bản thân và cái dinh dưỡng bản thân, thứ đến là sự tạm nghỉ hoàn toàn để tư duy, thứ nữa là dinh dưỡng người khác. Nhưng thầy chữa nào không thực hiện nguyên tắc này cuối cùng sẽ phải chịu tổn thất do lửa thiêu trụi hoặc có thể có nguy cơ bị bệnh tật do cạn kiệt năng lượng.
Điểm lại chương 21
1. Hãy mô tả những bài tập khai mở các kênh châm cứu. Tại sao chúng lại hoạt động?
2. Hãy mô tả những bài tập của thầy chữa thanh lọc trường hào quang của mình.
3. Hai điều gì thầy chữa phải thực hiện trước khi bắt đầu chữa trị?
4. Tại sao thầy chữa phải uống nhiều nước?
5. Bạn có thể thanh lọc một căn phòng cho hết năng lượng orgone chết bằng cách nào? Hãy đưa ra ba biện pháp.
6. Tại sao thầy chữa cần phải quan tâm đến không gian chữa trị ? Đến hệ thống năng lượng của thầy chữa? Điều gì sẽ xảy ra nếu thầy chữa không làm điều nói trên?
7. Bạn có thể phòng ngừa cho bản thân không chuốc phải năng lượng orgone chết như thế nào trong chữa trị? Trong hoàn cảnh cuộc sống bình thường?
8. Không gian chữa trị cần phải giữ sạch ba thứ gì?
9. Tại sao làm việc tại một không gian chữa trị thường dễ dàng hơn tại nhà bệnh nhân?
10. Nếu bạn chuốc phải năng lượng orgone chết trong khi chữa trị thì bạn có thể thanh lọc trường năng lượng của mình như thế nào?
11. Hãy mô tả ít nhất ba phương pháp chữa trị bằng các tinh thể.
12. Bạn có thể bị ốm do đeo tinh thể như thế nào? Nó có tác động gì? 
Chương 22
CHỮA TRỊ TỔNG PHỔ 
Về chữa trị có một điều quan trọng cần biết là: Trong một buổi chữa, người ta tiến hành chữa hoặc thao tác ở nhiều vầng hào quang khác nhau và thao tác tại từng vầng cũng rất khác thao tác tại các vầng kia. Ta sẽ hiểu được điều này nhiều hơn khi tôi đi vào mô tả chi tiết điều xảy ra trong chữa trị. Điều quan trọng khác là những năng lượng dùng chữa trị nhất thiết phải đi qua lò lửa của luân xa tim để biến đổi từ tâm linh thành vật chất và từ vật chất thành tâm linh như đã nói ở Chương 16.
Các bài tập tích lũy năng lượng cho một ngày chữa trị
Trước khi bắt đầu buổi chữa cho một bệnh nhân, điều quan trọng là bạn liên kết bản thân với những năng lượng cao nhất có thể có và thực hiện một vài bài tập đã nêu ở chương trước nhằm thanh lọc và nạp toàn bộ luân xa để cho năng lượng đi vào trường hào quang của bạn. Bạn hãy thực hiện các bài tập thiền định này trong vài ba tháng cho đến khi bạn tập thấy thoải mái. Trước khi bắt đầu một ngày chữa trị, điều rất quan trọng đối với bạn là tích lũy năng lượng và tập trung vào các chủ định của bạn. Thiền định vào chiều hôm trước hoặc sáng sớm hôm đó. Hãy cho mỗi bệnh nhân một phút. Hãy giữ tâm trí bạn hoàn toàn trống rỗng trong khi thu năng lượng vào trong một phút cho mỗi bệnh nhân. Một kỹ thhuật khác là tập trung tâm trí vào từng bệnh nhân trong khi thu năng lượng mà không có ý nghĩ nào khác. Lại tập trung lần nữa trong một phút cho mỗi bệnh nhân. Hãy mường tượng hoặc cảm nhận năng lượng tuôn chảy vào trong bạn. Bạn cũng cần có nhiều trải nghiệm trong nhận thức sáng suốt, như đã luận bàn ở Chương 19. Hãy đảm bảo là bạn được một vài người bạn có trải nghiệm về những vấn đề này ủng hộ. Hai việc (nhận thức sáng suốt và sự ủng hộ) không phải bắt buộc nhưng là điều kiện tiên quyết cho bất kỳ ai muốn trở thành một kênh trong khi chữa trị. Đây là một việc làm sâu sắc và không bao giờ được coi nhẹ hoặc coi như trò chơi liên hoan. Việc sử dụng không đúng đắn các kỹ thuật này có thể và thường hay dẫn đến những trải nghiệm khó chịu, có khả năng gây hại cho người nào toan dẫn kênh mà không có kỷ luật tâm linh thích đáng. Dẫn kênh quả đúng là sản phẩm phụ của kỷ luật tâm linh. Một khi những đòi hỏi này được đáp ứng thì người ta có thể tiếp tục bài tập làm cho các hướng đạo đi vào trường năng lượng của mình, như sẽ được trình bày sau trong chương này. Còn bây giờ bạn hãy thực hiện các bài tập ở Chương 21 trước khi bạn gặp bệnh nhân.
Sau khi chào hỏi bệnh nhân của mình, bạn hãy đảm bảo mô tả được ngắn gọn điều bạn sẽ làm nếu đó là bệnh nhân mới đến lần đầu. Điều quan trọng là thầy chữa truyền đạt càng nhiều càng tốt bằng ngôn ngữ của bệnh nhân. Càng đơn giản càng tốt. Nếu bạn nhận ra rằng bệnh nhân đã hiểu biết nhiều về hào quang và chữa trị thì bạn hãy nói ở mức hiểu biết đó. Hãy nhanh chóng xác định trình độ hiểu biết chung về chữa trị và hào quang để kiến lập nền tảng chung cho việc truyền đạt. Điều này sẽ làm cho bệnh nhân thoải mái để bạn có thể bắt đầu. 


Trong buổi chữa, tôi thường thao tác trước tiên với các cơ thể hào quang bên dưới, sau đó mới chuyển dịch lên các cơ thể hào quang bên trên. Nét đại cương về tiến trình chữa trị được nêu trong Hình 22-1 có thể bổ ích khi bạn theo mô tả chi tiết ở dưới.
Hình 22-1
 
TIẾN TRÌNH CHỮA TRỊ
1. Phân tích tổng quát hệ thống năng lượng của bệnh nhân.
2. Liên kết ba hệ thống năng lượng để sử dụng vào chữa trị: Của thầy chữa, bệnh nhân, của các hướng đạo và trường năng lượng vũ trụ.
3. Chữa trị bốn cơ thể hào quang bên duới (các vầng 1,2,3, và 4 của hào quang)
A. Thanh nạp: Nạp năng lượng và thanh lọc hào quang bệnh nhân
B. Làm sạch cột sống
C. Tinh khiết hóa các khu vực đặc thù của hào quang bệnh nhân.

4. Chữa trị vầng etheric mẫu (phẫu thuật tâm linh) (vầng thứ năm của hào quang)
5. Chữa trị vầng ketheric mẫu (vầng thứ bảy của hào quang) (tái cấu trúc)

A.  Tái cấu trúc cơ quan ketheric mẫu
B. Tái cấu trúc luân xa ketheric mẫu

6. Chữa trị mức thượng giới (vầng thứ sáu của hào quang).
7. Chữa trị từ mức vũ trụ (các vầng thứ tám và thứ chín của hào quang)

CHI TIẾT TIẾN TRÌNH CHỮA TRỊ
1. Phân tích tổng quát hệ thống năng lượng của bệnh nhân
Để bắt đầu chữa trị lần đầu tiên, tôi thường nhanh chóng phân tích cơ thể năng lượng nhằm xác định là nói chung, bệnh nhân sử dụng hệ thống năng lượng của họ như thế nào, đồng thời lưu ý các đặc điểm thể chất của thân thể nhằm xác định cấu trúc đặc tính của họ. Một khi đã thấy được cấu trúc đó, có thể tôi biết là mình sẽ làm việc nhiều tới mức nào với các luân xa thường bị tắc nghẽn. Tôi chỉ đơn giản để bệnh nhân đứng, hai bàn chân song song, hai vai mở rộng bình thường. Sau đó tôi yêu cầu họ co và duỗi gối đồng thời thở nhịp nhàng theo động tác đó. Điều này làm phát hiện nhiều vấn đề về cung cách người đó điều khiển đúng và điều khiển sai năng lượng của mình, khiến cuối cùng gây ra trở ngại thể chất. Chẳng hạn, năng lượng thường không chảy đều nhau lên hai chân; năng lượng thường bên nọ mạnh hơn bên kia của thân thể; có những vùng thân thể nhiều năng lượng hơn các vùng khác. Tất cả những mất cân bằng này có liên quan đến các vấn đề cảm xúc và tâm thần mà bệnh nhân phải đương đầu và chữa trị. Chẳng hạn, một vài người vốn sợ yêu thương có thể sẽ đưa thêm năng lượng ra phía sau thân thể, gần vùng tim (trung tâm ý chí) như vậy là điều khiển sai năng lượng vốn cần thiết để nuôi dưỡng trung tâm yêu thương của tim (tức luân xa 4A, đàng trước - ND).
Sau khi hiểu biết qua về cung cách sử dụng hệ thống năng lượng của bệnh nhân, tôi thường tiến hành phân tích luân xa bằng cách dùng con lắc để thăm dò. Bây giờ tôi chỉ đơn giản "đọc" vấn đề bằng tâm linh.
Đối với người mới nhập môn, tôi gợi ý họ hãy nhìn vào cấu trúc thân thể của bệnh nhân. So sánh nó với cái họ đã học được về cấu trúc đặc tính. Những cấu trúc đặc tính nào chiếm ưu thế hơn cả? Rồi cái nào sẽ là những tâm lý động lực có liên quan? Những luân xa nào thường kém hoạt động nhất? Hãy điểm lại các bảng ghi trong Chương 13. Thông tin này cho thấy nhiều vấn đề về cân bằng lý trí, ý chí và xúc cảm, cũng như về những phương châm xử thế chủ động và dễ tiếp thu trong nhân cách. Nó cũng nói lên nhiều điều về cách thức hoạt động của người đó trong từng khu vực mà mỗi luân xa đại diện về tâm lý động lực học. Hãy nhìn vào cấu trúc thân thể. Có thể sử dụng toàn bộ thông tin này để hướng dẫn người đó vào việc thấu hiểu bản ngã sâu sắc hơn và cách thức hoạt động ngày này qua ngày khác.
Bây giờ tôi yêu cầu bệnh nhân cởi giày và mọi đồ trang sức (có thể gây nhiễu loạn các vạch năng lượng bình thường của người đó), rồi nằm ngửa lên bàn xoa bóp của tôi. (Ở thời điểm này, có thể bạn muốn tiến hành đọc luân xa bằng con lắc như đã nêu trong Chương 10.) Tôi thường đưa các tinh thể của mình ra nếu thấy việc này thích hợp với bệnh nhân. Như trong chương trước đã đề cập, khi tôi sử dụng các tinh thể, tôi đặt vào tay trái bệnh nhân một tinh thể lớn thạch anh hồng và vào tay phải người đó một tinh thể lớn thạch anh trong. Tôi dùng một tinh thể lớn thạch anh tím có chứa quặng sắt đeo lên các luân xa 2 và 1 để giữ cho trường năng lượng của bệnh nhân rung động mạnh mẽ và giữ cho người đó tiếp đất tại thân. Tinh thể thứ tư là cái muôi của tôi. Đó là một tinh thể thạch anh trong, rộng chừng 1 1/2 in, dài chừng 3 1/2 in. Cái lớn hơn sẽ rất nặng tay, còn cái bé hơn thì không đẩy được năng lượng ra ngoài. Tinh thể nói trên có một tia ánh sáng trắng rất mạnh từ đỉnh phát ra, tác động như một tia laser trong việc xén gọt mảng năng lượng tích tụ trong hào quang làm cho nó lỏng ra. Tôi sử dụng tinh thể này trong phần "tinh khiết hóa"của chữa trị.
2. Sắp xếp hệ thống năng lượng của thầy chữa, bệnh nhân và các hướng đạo.
Điều rất quan trọng trước khi tiếp cận lần đầu tiên với thân thể bệnh nhân là liên kết bản thân với các năng lượng cao cấp vẫn luôn luôn có mặt. Để làm việc này, tôi lại nhanh chóng đưa năng lượng của mình lên các luân xa như mô tả trong bài tập 22. Tôi khẳng định là mình liên kết bản thân với Chúa Jesus và các quyền lực ánh sáng vũ trụ. Tôi cầu khấn, lặng lẽ hoặc thốt nên lời. "Tôi cầu xin được làm kênh dẫn cho yêu thương, chân lý và chữa trị, nhân danh Chúa Jesus và các quyền lực ánh sáng vũ trụ". Nếu bạn không có liên kết với Chúa Jesus thì xin hãy sử dụng liên kết mà bạn phải có với Minh triết vũ trụ, Thượng Đế, Ánh sáng của Thượng Đế, Cõi linh thiêng v.v... Cầu khẩn xong, tôi tĩnh lặng tâm trí bằng cách nhắm mắt và thở sâu dài hơi bằng mũi, để cho không khí cọ vào màng hầu. Tôi ngồi ở phía chân bệnh nhân và đặt hai ngón tay cái của mình lên điểm phản chiếu của đám rối thái dương ở gan bàn chân; điểm này, như đã được xác định bằng hệ thống phản xạ ở chi dưới, khu trú ở gan bàn chân, ngay bên dưới vòm bàn chân (xem hình 22-2). Sau đó tôi tập trung chú ý lên bệnh nhân để điều chỉnh ba hệ thống năng lượng có liên quan: Của bệnh nhân, của tôi và của quyền lực ánh sáng vĩ đại. Việc này có thể thực hiện bằng cách chụp quét qua đỉnh đầu của thầy chữa rồi qua thân thể của bệnh nhân mà lên tới đỉnh đầu của người đó. Xong việc này, có thể nhanh chóng quan sát các cơ quan bằng cách sờ các điểm phản chiếu ở chân và cảm nhận tình trạng năng lượng của mỗi điểm. Những điểm quan trọng nhất hóa ra lại thường là các cơ quan chủ yếu của thân thể và cột sống.
Những điểm mất cân bằng ở gan bàn chân sẽ được cảm nhận là quá mềm hay quá cứng. Phần mềm của chi dưới có thể vẫn duy trì vết lõm sau khi bạn lấy đầu ngón tay mà ấn vào, đòi hỏi thêm tính co giãn. Có thể nó quá co giãn và không lõm chút nào. Có thể nó tựa như là co cơ. Có một cách khác để mô tả cảm giác mà bạn có thể bắt gặp từ các điểm mất cân bằng về dòng chảy năng lượng là ta có cảm giác chúng như thể một vòi phun nhỏ năng lượng đang vọt ra khỏi các điểm đó hoặc như thể một cuộn xoáy đang đi vào da tại điểm đó. Với những huyệt châm cứu mất cân bằng cũng đúng như vậy. Các huyệt châm cứu trông giống như những cuộn xoáy năng lượng nhỏ xíu hay những luân xa bé tí. Một huyệt châm cứu mất cân bằng sẽ có năng lượng vọt ra tại đó, hoặc ta cảm thấy nó như một xoáy nước bé tí hút năng lượng vào. Có thể là bạn muốn cho năng lượng chảy riêng vào những huyệt nào cần.
Dẫn kênh để chữa trị
Khi bạn đã tiến bộ qua tiến trình chữa trị, bạn có thể thêm một chiều nữa vào trong việc dẫn kênh dùng thu nhận thông tin.

 

 
 


Trong việc dẫn kênh để tự chữa trị, bạn để cho các hướng đạo sử dụng thêm trường năng lượng của bạn bằng hai phương thức chủ yếu. Phương thức thứ nhất là đơn giản để cho các mức khác nhau hay các rung động khác nhau của ánh sáng được dẫn kênh qua trường năng lượng của bạn. Thường thì các màu sắc và tần số này do hướng đạo chọn. Người dẫn kênh chỉ có việc duy trì liên kết với ánh sáng của Chúa Jesus. Phương thức thứ hai là để cho các hướng đạo đi từng phần vào trường hào quang của bạn và làm việc trên trường hào quang của bệnh nhân qua thao tác trực tiếp. Trong cả hai trường hợp, bạn hãy để hai bàn tay của mình được thầy dạy tâm linh hướng dẫn cho. Trường hợp thứ nhất, việc hướng dẫn và các động tác bàn tay là chung chung, có thể bắt đầu ngay khi bạn vừa đặt hai tay lên bàn chân bệnh nhân. Trường hợp thứ hai, việc hướng dẫn cũng như động tác rất phức tạp, rất chính xác và thường được tiến hành ở các mức bên trên của trường năng lượng (5-7). Nhiều khi hướng đạo sẽ vươn tay mình qua tay thầy chữa và vượt quá ra mà đi thẳng vào thân thể bệnh nhân. Việc này đòi hỏi sự chú ý cao độ của thầy chữa vào điều mà hướng đạo làm, để đừng gây nhiễu. Chẳng hạn như khi chữa trị ở mức thứ năm của hào quang, nếu bạn thoáng thấy mệt khi đặt tay hay khi chuyển dịch tay theo cách nào đó và bạn muốn ngừng lại, thì bạn phải làm rõ điều này cho hướng đạo biết và để cho hướng đạo có đủ thời gian điều chỉnh việc chữa trị để tính đến việc ngắt năng lượng như vậy. Việc bỏ tay ra quá sớm thường gây choáng năng lượng cho bệnh nhân, thường làm họ giật nảy người. Bấy giờ bạn phải quay trở lại và sửa chữa hư hỏng do bạn gây nên. Khi đã có kinh nghiệm, bạn sẽ quen với các tiến trình chữa trị theo giai đoạn, nó cho phép những ngưng nghỉ khi cần.
3. Chữa trị bốn vầng hào quang bên dưới
A. Thanh nạp: Nạp năng lượng và thanh lọc hào quang bệnh nhân




Đức Rosalyn Bruyere đã tìm ra và phát triển kỹ thuật "thanh nạp", nghĩa là thanh lọc trường năng lượng bằng cách loại bỏ những mảnh vụn hào quang cộng thêm việc nạp đù năng lượng cho hào quang như thể bơm căng quả bóng và làm cân bằng toàn bộ hào quang. Người ta thực hiện việc thanh nạp bằng cách cho chạy năng lượng từng bước vào thân thể, bắt đầu từ bàn chân. Tốt hơn cả là cho chạy năng lượng theo phương thức tự nhiên nhất; điều đó tạo nên cân bằng và sức khỏe trong toàn bộ hệ thống. Do vậy mà năng lượng chạy vào thân thể từ chân đi lên, bởi lẽ năng lượng thường được rút từ đất lên qua luân xa 1 và hai luân xa ở gan bàn chân. Những năng lượng đất này bao giờ cũng cần thiết trong chữa trị thân thể vì chúng là những rung động thể chất bậc thấp. Như vậy là bạn rót năng lượng vào một hệ thống đã xả hết ra, theo phương thức tự nhiên nhất thích hợp với nó. Theo phương thức này, cơ thể năng lượng lấy năng lượng vào và chở tới nơi cần đến. Mặt khác, nếu bạn bắt đầu từ vùng đau thì rất có thể cơ thể năng lượng sẽ chở năng lượng tới vị trí khác, trước khi nó bắt đầu dinh dưỡng thực sự cho vùng vào. Bởi vì đó không phải là dòng chảy tự nhiên, nó không có hiệu lực lắm đâu. Xin hãy nhìn sơ đồ thanh nạp ở Hình 22-3. Những hình tiếp theo trong chương này sẽ cho thấy là hào quang của một bệnh nhân thay đổi như thế nào qua chữa trị trọn vẹn.
Khi Mary lần đầu tiên đến với tôi, trường hào quang của chỉ tắc nghẽn, u ám và mất cân bằng (Hình 22-4). Có những tắc nghẽn xuất hiện màu đỏ thẫm và nâu xỉn ở hai gối, vùng chậu, đám rối thái dương và hai vai. Luân xa đám rối thái dương bị biến dạng, lúc này trông nó như một cuộn xoáy nhỏ ở khu vực phía trên bên trái nhô lên giống cái lò xo đã bật ra. Biến dạng này lan rộng tới các vầng thứ năm và thứ bảy của trường hào quang. Hình thù này phối hợp với một thoát vị khe. Mary kêu đau ở khu vực đó và chị cũng có những vấn đề trong cuộc sống riêng tư liên quan sâu sắc đến những người khác. Quá trình chữa trị tiến hành trong mấy tuần lễ, chẳng những tái cân bằng được trường năng lượng cho chị, nạp năng lượng cho nó và tái cấu trúc nó, mà còn giúp Mary học được cách liên kết tốt hơn với những người khác. Việc này tiến hành qua dẫn kênh thông tin về các trải nghiệm tuổi thơ của chị, dạo chị thường hay học cách làm nghẽn trường năng lượng của mình và do vậy mà cuối cùng đã tạo ra một vấn đề tâm lý và thể chất.
Bây giờ chúng ta hãy đi qua các bước chữa trị như thể bạn là thầy chữa.
Bạn hãy ngồi, hai bàn tay đặt lên hai chân của bệnh nhân (Mary) cho đến khi toàn bộ trường năng lượng được thanh lọc và cân bằng (Hình 22-5). Dòng chảy năng lượng từ tư thế này sẽ hoạt hóa toàn bộ trường năng lượng. Bạn đừng tìm cách điều khiển màu sắc mà bạn dẫn kênh: Hãy để cho nó tự động tuôn chảy. Nếu bạn tập trung vào một màu thì có thể bạn sẽ gây trở ngại hơn là giúp đỡ, bởi vì các trường năng lượng tinh nhanh hơn trí óc tuyến tính của bạn.
Chừng nào mà bạn thanh lọc trường năng lượng của mình đến mức các luân xa thông suốt và nhờ đó chuyển hóa được mọi màu sắc của trường năng lượng của bệnh nhân sẽ chỉ đơn giản hấp thụ cái mà nó cần. Nếu một trong các luân xa của bạn tắc nghẽn thì bạn sẽ gặp khó khăn trong việc dẫn kênh cho màu sắc hoặc tần số của ánh sáng truyền qua luân xa đó. Nếu gặp trường hợp như vậy, bạn hãy lập lại bài tập khai mở luân xa cho đến khi tất cả luân xa của bạn được khai mở. Hình 22-6 cho thấy dòng chảy năng lượng đi vào các luân xa của thầy chữa qua dòng năng lượng thẳng đứng của thầy chữa để vào luân xa tim rồi đi ra qua hai cánh tay thầy chữa mà đi vào trong trường hào quang của bệnh nhân.
Trong khi năng lượng tuôn chảy, thanh lọc, nạp năng lượng và tái cân bằng toàn bộ trường năng lượng của bệnh nhân, có thể bạn sẽ cảm thấy nó tuôn chảy qua hai tay bạn. Cứ như thế vòi nước tuôn chảy từ hai bàn tay. Có thể bạn sẽ thấy ấm hoặc ngứa ran. Có thể bạn cảm thấy các rung động chậm rãi và nhịp nhàng. Nếu bạn nhạy cảm về mặt này, bạn sẽ cảm nhận được những thay đổi trong dòng chảy đó. Đôi khi ở một bên sẽ có nhiều năng lượng tuôn chảy hơn bên kia. Lúc này tần số rung động sẽ thay đổi, hướng của dòng chảy cũng thay đổi, hoặc vị trí chung của năng lượng được bơm đầy trong trường năng lượng của bệnh nhân cũng thay đổi. Tại thời điểm này, dòng chảy đã đi tới toàn bộ các khu vực của cơ thể hào quang.



Sau một số phút thao tác, cường độ dòng chảy sẽ giảm và sẽ chỉ đơn giản có một dòng chảy năng lượng bằng nhau ở cả hai phía của thân thể. Điều đó có nghĩa là toàn bộ trường năng lượng đã được cân bằng và lúc này bạn sẵn sàng chuyển sang tư thế khác. Nhớ rằng hào quang của Mary trình bày ở Hình 22-5 đã thông suốt hơn nhiều so với hào quang trình diện của chị trong hình 22-4.

Bây giờ bạn hãy chuyển dịch vòng sang bên phải bệnh nhân. Một tay luôn để trên người bệnh nhân để duy trì liên kết, bạn hãy đặt tay phải của mình vào gan bàn chân trái của bệnh nhân và đặt tay trái của mình vào cổ chân trái của bệnh nhân. Bạn sẽ phải chồm người qua bệnh nhân để thực hiện việc này (Hình 22-7). Hãy để cho năng lượng tuôn chảy từ bàn tay phải của bạn sang bàn tay trái của bạn qua chân bệnh nhân. Trước tiên dòng chảy năng lượng có thể yếu, sau đó, khi các con sông của dòng chảy năng lượng tràn đầy, thì dòng chảy năng lượng trở nên mạnh mẽ. Khi bàn chân đã tràn đầy năng lượng, dòng chảy giữa hai bàn tay của bạn lại giảm xuống. Bây giờ bạn hãy chuyển hai tay mình sang bàn chân phải và cổ chân phải của bệnh nhân để lặp lại cách thức tương tự.

Hãy làm cho nó tràn đầy năng lượng như ở bàn chân trái. Rồi chuyển bàn tay phải của bạn sang cổ chân trái của bệnh nhân và bàn tay trái của bạn sang gối trái của bệnh nhân. Hãy cho năng lượng chạy từ bàn tay phải của bạn qua cẳng chân trái của bệnh nhân mà đi vào bàn tay trái của bạn. Ban đầu, có thể dòng chảy sẽ yếu và có khả năng ở một bên cẳng chân mạnh hơn bên kia. Khi tại đây đã đầy đủ năng lượng, bạn hãy chuyển sang tư thế cổ chân phải / gối phải (hình 22-8). Khi bạn thanh nạp giữa cổ chân và gối, các đám mây thẫm trên đùi phải và hông phải tiêu tan và trường năng lượng tại đây sáng lên. Sau đó một số vùng thẫm ở bên trái đám rối thái dương bắt đầu tiêu tan. Hãy thao tác tiếp lên các chi dưới, khớp nọ tới khớp kia, gối tới hông, bên trái, bên phải (Hình 22-9). Khi bạn tiếp tục thao tác lên thân thể, hào quang bệnh nhân sẽ tiếp tục trở nên trong trẻo và bệnh nhân sẽ đi vào một trạng thái biến đổi ý thức. Hãy chuyển từ hông sang luân xa 2 (Hình 22-10). Lúc này trường năng lượng của bệnh nhân ở vùng chậu trở nên trong trẻo, nhất là tại khu vực nằm giữa hai tay bạn. Trong tư thế này, bàn tay phải của bạn đặt tại hông bệnh nhân và bàn tay trái của bạn đặt tại chính giữa luân xa 2, ngay phía trên xương mu. Hãy lặp lại ở mỗi bên. Bạn sẽ nhận thấy những thay đổi biểu hiện ra bằng sự tăng giảm của dòng chảy năng lượng khi bạn chuyển từ một vị trí sang vị trí tiếp sau. Khi bạn đặt hai bàn tay lên vị trí mới, năng lượng lúc đầu tuôn chảy chậm chạp cho đến khi hình thành được liên kết giữa trường năng lượng của bạn và trường năng lượng của bệnh nhân. Dòng chảy sẽ tăng cường và đạt cao điểm, sau đó giảm dần và hoặc là ngừng lại hoặc vẫn tiếp tục với tốc độ rất chậm. Điều này có nghĩa là đã đến lúc phải chuyển sang vị trí khác. Sẽ thấy dòng chảy năng lượng tựa như một cảm giác ngứa ran hay những đợt sóng nóng hổi. Bao giờ bạn cũng phải bảo đảm chắc chắn đã tạo được dòng chảy năng lượng đồng đều ở cả hai bên của bất cứ cơ quan nào trên thân thể, trước khi cho đi tiếp. Điều này bao gồm cả hai bên của chi dưới cũng như cả hai bên của thân thể.
Sau khi luân xa 2 đã được thanh lọc, nạp năng lượng và cân bằng một cách hoàn hảo, bạn hãy chuyển tay phải tới luân xa 2 và tay trái tới luân xa 3 (Hình 22-11). Với Mary, bạn sẽ phải mất nhiều thời gian hơn cho các luân xa 2 và 3 vì hai luân xa này bị tắc nghẽn nặng nhất. Khi bạn đã thanh nạp xong khu vực này hãy đặt tay phải của mình lên luân xa 3 và đặt tay trái lên luân xa 4.
Khi bạn bắt đầu thanh nạp trực tiếp vào các luân xa, bạn sẽ đi vào trạng thái đồng cảm sâu sắc với bệnh nhân. Bạn có thể thấy bản thân mình thở cùng nhịp với họ. Điều đó có nghĩa rằng bạn là "gương phản chiếu". Đã là gương phản chiếu thì bạn có thể dẫn nhịp thở của bệnh nhân chỉ đơn giản bằng cách thay đổi nhịp thở của chính mình; nhịp thở của bệnh nhân sẽ theo đúng như vậy. Tại thời điểm này của chữa trị, làm việc đó có thể là quan trọng, bởi lẽ bạn sẽ bắt đầu khai mở chất liệu cảm xúc khi bạn chuyển dịch vào trong các luân xa. Ngay khi chất liệu cảm xúc bắt đầu được phóng thích thì con người sẽ tìm cách nín thở trong một cố gắng kìm nén các cảm nghĩ.
Lúc này Mary đang bắt đầu kìm nén các cảm nghĩ của chị khi các luân xa 2 và 3 trở nên liên kết hơn. Bạn khuyến khích chị ấy thở. Chị ta làm theo và kêu khóc. Chị cảm thấy cô độc. Bạn cũng vậy. Có thể bạn cảm thấy hay nhìn thấy các trải nghiệm tuổi thơ của Mary có liên quan đến chuyện này. Hãy chia xẻ các trải nghiệm đó với chị ấy. Lúc này chị hiểu được mối liên kết ấy và kêu khóc nhiều hơn. Luân xa 2 và luân xa 3 của chị thông suốt hơn như là kết quả của việc chị đã bộc lộ cảm nghĩ. Nếu bạn có trục trặc trong việc chịu đựng các cảm nghĩ này thì hãy thay đổi cách thở để ngừng việc dẫn nhịp thở và nâng ý thức của bạn lên mức cao hơn. Hãy tiếp tục gửi năng lượng cho chị ấy. Khi các luân xa của Mary đã thông suốt, chị trở nên bình tĩnh và yên lặng. Hình 22-12 cho thấy việc thanh nạp đã làm quang đãng bốn mức bên dưới của trường năng lượng Mary, nhưng chỗ rách vẫn chưa được sửa chữa. Luân xa 3 sẽ cần sự chú ý đặc biệt trên các vầng thứ năm và thứ bảy, nơi có chỗ rách. Để thanh nạp các luân xa 4, 5 và 6, bạn chỉ đơn giản tiếp tục trên thân thể, đặt tay trái của bạn lên luân xa bên trên và tay phải lên luân xa bên dưới. Khi bạn tới luân xa 5 thì phần đông bệnh nhân cảm thấy thoải mái hơn nếu bạn đặt tay trái dưới cổ, thay vì đặt ở phía trên cổ. Sau khi hoàn tất việc đó, hãy chuyển từng tay bạn đến từng vai trong khi bạn thả mình vào một tư thế ngồi phía trên đầu bệnh nhân. Hãy cân bằng hai bên phải trái của trường năng lượng Mary. Sau đó từ từ chuyển tay lên hai bên cổ tới hai thái dương, suốt thời gian đó vẫn cho chạy năng lượng. Tới điểm này, nếu bạn là sinh viên, bạn sẽ chuyển sang chữa trị mức thứ sáu được mô tả trong điểm 6. Tiến hành chữa trị mức thứ sáu và kết thúc ở mức thứ bảy như mô tả trong tiêu đề Đóng kín mức ketheric mẫu. Khi mới bắt đầu bạn chớ nên mong ngóng được làm gì thêm nữa ngoài việc đó, cho đến khi bạn trở nên thành thạo hơn trong chữa trị. Trước hết, việc đó có thể làm cho bạn mất ít nhất một tiếng đồng hồ để hoàn tất. Sau nhiều giờ thực hành, bạn sẽ bắt đầu thấy các vầng bên trên của trường hào quang và bấy giờ sẽ bắt đầu thao tác trên các vầng đó như mô tả trong các điểm 4 và 5. Thậm chí về sau có thể bạn sẽ thấy cả bên trên vầng thứ bảy và bắt đầu thao tác ở các mức thứ tám và thứ chín như mô tả trong điểm 7.
Tôi yêu cầu tất cả sinh viên mới hãy thực hiện thanh nạp trọn vẹn để bảo đảm là họ sẽ không bỏ sót bất cứ cái gì cần phải thanh lọc như vậy. Về sau, khi họ đã thành thạo hơn, cả về việc cho chạy năng lượng, cả về việc cảm nhận trường hào quang, thì họ sẽ không còn phải thanh nạp tất cả các luân xa. Họ sẽ biết là cần thanh nạp tới đâu. Với những bệnh nhân tim, điều quan trọng là thanh nạp ngược chiều. Nghĩa là bạn đưa năng lượng ra khỏi luân xa tim, bởi vì tim thường có tắc nghẽn năng lượng màu thẫm.

Tới điểm này tôi sẽ cung cấp một vài điều gợi ý về thanh nạp. Bạn hãy nhớ rằng bạn dẫn kênh chứ không phải bức xạ. Điều này có nghĩa là bạn nâng các rung động của mình lên tới mức năng lượng cần thiết, rồi bạn chỉ đơn giản liên kết bản thân với trường năng lượng vũ trụ và để cho năng lượng tuôn chảy (tựa như ta đặt cái phích điện vào ổ cắm ở tường). Nếu bạn không tiến hành chữa trị theo cách đó thì bạn sẽ rất chóng mệt. Bạn không thể bức xạ hoặc hướng đủ năng lượng từ bên trong trường năng lượng của chính mình ra để chữa trị, bạn phải dẫn kênh cho các năng lượng (công việc của bạn trong dẫn kênh là chỉ nâng cao các rung động của mình lên đến mức có thể nối mạch với trường năng lượng vũ trụ). Để nâng các rung động của bạn lên mức năng lượng cao hơn thì các bài tập khai mở luân xa mà bạn đã thực hiện là rất bổ ích. Bằng cách chuẩn bị cho việc chữa trị trước thời gian, bạn sẽ bắt đầu tại một mức năng lượng và tần số cao. Trong suốt thời gian chữa trị, bạn sẽ lên tới những mức cao dần, đơn giản chỉ vì bạn ở trong trạng thái ý thức được nâng cao. Nói đúng hơn, bạn càng ở lâu trong trạng thái đó bao nhiêu thì bạn càng có khả năng đạt cao bấy nhiêu, nhất là nếu bạn giữ được tập trung cùng với việc thở tốt. Kiểu thở tốt nhất mà tôi sử dụng là hít vào thở ra thật dài, có nghỉ chút xíu ở giữa. Thở qua mũi, cọ không khí vào màng hầu, như trong các bài tập nêu ở Chương 18. Bạn cũng có thể tập trung vào việc mở rộng trường hào quang của mình. Điều quan trọng nhất phải làm là vẫn thả mình vào trong một dòng chảy nhạy cảm đồng bộ với các trường năng lượng xung quanh. Một sự tạm ngừng trong dòng chảy năng lượng có thể là biểu hiện của một tần số cao hơn sắp sửa đi vào. Bạn hãy chờ một chút. Nếu nó không vào, bấy giờ bạn hãy chuyển chỗ như đã nói. Khi bạn trở nên hòa đồng hơn, bạn sẽ bắt đầu cảm thấy những thay đổi về tần số của năng lượng chảy qua người bạn. Cuối cùng bạn sẽ có thể giữ lại một vài mức tần số nào đó bằng cách điều chỉnh lối thở và tập trung.
Hãy giữ hai bàn tay căng nhẹ áp chặt vào người, hướng cho năng lượng - mà bạn nhận được bằng toàn bộ luân xa của mình - đi qua hai bàn tay và vào thân thể bạn. Có thể là bạn muốn rung động thân thể mình, để làm cho các luân xa bơm thêm năng lượng, bằng cách sử dụng bài tập 25 mô tả ở Chương 21.
Tại phần này của chữa trị, có thể là bạn đang sử dụng năng lượng qua các luân xa bên trên. Nhiều năng lượng cũng từ đất mà đi lên qua gan bàn chân. Phải bảo đảm hai bàn chân của bạn áp lên sàn nhà.  Hãy mường tượng là bạn đang cắm rễ vào lòng đất và rút năng lượng từ những rễ đó lên. Phương pháp này dinh dưỡng và nạp năng lượng cho các cơ thể năng lượng bên dưới. Phải chắc chắn là thân thể bạn luôn ở trong tư thế thoải mái để bảo đảm cho dòng chảy năng lượng được tự do.
Hệ thống năng lượng của bệnh nhân sẽ lấy năng lượng này và tự động chuyển nó đến khu vực đang cần của thân thể. Ví dụ, mặc dù hai tay bạn có thể đặt ở hai chân bệnh nhân, năng lượng này vẫn có thể đi lên cột sống và đi vào phía sau đầu. Trong khi tiến hành thanh nạp và nhằm chuẩn bị bệnh nhân cho thao tác đặc hiệu hơn, thầy chữa cần sử dụng khoảng thời gian quan trọng này để nghiên cứu diễn biến tâm lý của bệnh nhân và trao đổi với họ. Đây là thời gian bệnh nhân bắt đầu bộc lộ và chia xẻ chuyện riêng tư một cách sâu sắc. Một niềm tin cậy lẫn nhau được hình thành ngay từ lúc thầy chữa đặt tay lên bệnh nhân. Thầy chữa cũng sẽ tiếp tục "chụp quét" thân thể bệnh nhân để nắm được những khu vực có vấn đề.
Trong trường hợp Mary, hào quang của chị đã sáng sủa ra và thanh thoát hơn nhiều, như ta có thể thấy ở Hình 22-12. Trong khi thanh nạp khu vực của các luân xa 2, 3 và 4, sự giải thoát cảm xúc đã đưa chị vào một trạng thái thư giãn sâu sắc. Bốn mức đầu tiên của trường năng lượng bệnh nhân đã đủ thông suốt để hỗ trợ cho thao tác ở vầng thứ năm và vầng thứ bảy. Một bệnh nhân khác không có được kết quả đó ngay cả khi đã được tiến hành thanh nạp đầy đủ qua luân xa 6 và về sau còn phải được thanh lọc thêm trường năng lượng tại những vị trí đặc biệt có rối loạn nặng. Có hai phương thức chủ yếu để thanh lọc như vậy. Một là làm sạch cột sống. Hai là đẩy ra hoặc xúc hết rác rưởi hào quang ra khỏi những khu vực đặc biệt.
B. Làm sạch cột sống
Vào lúc này, có thể bệnh nhân cần được làm sạch cột sống (xem hình 22-13). Nhìn chung, đây là việc hữu ích cần tiến hành, bởi vì nó làm sạch được dòng năng lượng thẳng đứng chủ yếu trong trường hào quang. Tuy nhiên, trong buổi chữa trị kéo dài một tiếng đồng hồ, phần lớn trường hợp tôi không làm sạch cột sống, trừ phi cột sống có vấn đề, vì thường có nhiều việc quan trọng khác và vì một cột sống bình thường sẽ thông suốt trong khi ta tiến hành thanh nạp. Một phần của kỹ thuật này đã được thầy C.B của tôi truyền dạy cho.
Để làm sạch cột sống, hãy yêu cầu bệnh nhân nằm sấp. Bảo đảm có một cái bàn đục lỗ cho mũi lọt xuống hoặc áp vào khay để úp mặt, sao cho bệnh nhân có thể nhìn thẳng xuống. Bệnh nhân sẽ không quay đầu sang bên.
Xoa bóp vùng xương cùng. Dùng hai ngón tay cái xoa bóp các lỗ của xương này, những lỗ xương mà các dây thần kinh đi qua (đây là khu vực bên trên cơ gluteus maximus, nơi có những chỗ gợn). Bạn hãy tìm xương cùng trong sách giải phẫu nếu bạn không biết nó như thế nào. Đó là một tập hợp xương kết lại, hình tam giác mà đỉnh hướng xuống dưới, dọc mỗi cạnh bên có năm lỗ xương. Đốt sống lưng cuối cùng (tức đốt sống lưng thứ năm, 1.5 - ND) ngồi lên trên nó, còn từ đỉnh của nó thì có xương cụt chạy dài xuống dưới. Dùng ngón tay cái day thành những đường tròn nhỏ lên các lỗ xương cùng. Bạn sẽ phát năng lượng màu vàng cam ngả đỏ qua hai ngón tay cái. Thao tác như vậy đi lên cho hết cột sống, từ bên phải của bệnh nhân, mỗi ngón cái của bạn thao tác ở một bên của từng đốt sống. Tay phải day thành vòng tròn thuận chiều kim đồng hồ và tay trái ngược chiều kim đồng thồ thì tốt hơn.
Bây giờ bạn hãy khum hai bàn tay lại bên trên luân xa 2. Dẫn kênh cho năng lượng màu vàng cam ngả đỏ từ hai bàn tay bạn đi vào luân xa này trong khi từ từ làm động tác xoay thuận chiều kim đồng hồ bằng hai bàn tay. Để làm việc đó, bạn phải giữ được dòng chảy năng lượng của mình ở tần số màu vàng cam ngả đỏ. Kỹ thuật này được giảng trong Chương 23 nói về chữa trị bằng màu sắc.



Nạp năng lượng cho luân xa 2. Khi đã nạp xong, bạn bắt đầu chuyển hai tay đi lên theo cột sống. Hãy để cho ánh sáng đổi thành một chùm sáng màu xanh tựa laser khi hai tay bạn rời khỏi luân xa 2. Phải bảo đảm là bạn không "buông rơi" liên kết năng lượng khi tay bạn chuyển lên theo cột sống. Bạn sẽ phải xác định vị trí của mình bằng cách nào đó để bạn có thể đưa hai tay chuyển lên theo cột sống một cách thoải mái.
Với ánh sáng xanh laser của mình, bạn làm sạch cột sống và đẩy tất cả năng lượng tắc nghẽn ra khỏi chỏm đầu qua luân xa đỉnh đầu. Hãy lặp lại toàn bộ tiến trình nói trên ít nhất ba lần và cho đến khi dòng năng lượng chủ yếu được làm sạch. Có thể bạn muốn vỗ nhẹ các luân xa 4 và 5 để giúp chúng khai mở.

C. Tinh khiết hóa các khu vực đặc thù của hào quang bệnh nhân
Trong khi thanh nạp, bạn sẽ bắt đầu cảm nhận qua tri giác cao cấp nơi nào bạn sẽ thao tác tiếp trên thân thể. Khi bạn đã tiến bộ, có thể bạn sẽ không cần thanh nạp qua tất cả các luân xa trước khi bắt đầu thao tác trực tiếp hơn trên một vùng có năng lượng tắc nghẽn. Sau nhiều lần thực hành, ít nhất bạn cũng sẽ thanh nạp được qua tim trước khi tập trung lên một khu vực (bạn hãy tự để cho bản thân được trực giác dẫn dắt). Thực hiện thao tác trực tiếp nhiều hơn bằng cách cho chạy năng lượng vào trong hào quang tắc nghẽn để tiếp sinh lực cho nó và đánh long năng lượng ứ trệ và/ hoặc bằng cách dùng hai tay trực tiếp kéo chất nhầy hào quang tắc nghẽn ra ngoài,.
Để cho chạy năng lượng thẳng vào một khu vực đặc thù, bạn có thể dùng hai tay riêng rẽ hoặc kết hợp. Với hai tay ở mỗi bên của tắc nghẽn (trước ra sau ở gan bàn chân cho đến đỉnh đầu), bạn có thể hướng cho năng lượng chuyển dịch ra khỏi một khu vực và đi vào một khu vực khác bằng cách dùng tay phải để đẩy và tay trái để kéo, hoặc ngược lại (xem chương 7 về các kỹ thuật đẩy/kéo/ngừng). Đôi khi làm như trên là phải; lúc khác bạn lại cảm thấy dùng cả hai tay thích hợp hơn. Mỗi kỹ thuật đều hướng năng lượng đi thẳng vào tắc nghẽn và chém sâu vào trong hào quang. Mỗi kỹ thuật cũng làm cho năng lượng mới tràn ngập sâu vào hào quang và là một phương pháp tốt để bơm đẩy hào quang. Hình 22-14 minh họa các tư thế hai tay. Ở phương pháp hai tay kết lại, hai ngón cái tréo nhau, hai lòng bàn tay nhìn xuống dưới, bên trên khu vực mà bạn hướng năng lượng vào. Bảo đảm hai tay sít lại với nhau, không còn khoảng trống nào giữa chúng hoặc giữa các ngón. Các ngón tay cần phải hơi khum khum. Hãy rung động hai tay để tăng cường dòng chảy năng lượng.
Bạn sẽ thấy rằng bằng cách làm như vậy, bạn có thể hướng năng lượng như hướng một chùm sáng vào sâu trong thân thể. Nó có thể bơm đầy hoặc có thể đánh long các vật. Các hướng đạo sẽ chỉ dẫn cho bạn tới nơi cần thiết và cho chạy năng lượng thích đáng qua. Nếu họ sử dụng kỹ thuật đánh long tắc nghẽn này thì chẳng mấy chốc họ sẽ thay đổi tần số mà họ phát vào và có thể đảo ngược dòng chảy năng lượng cũng như hút tắc nghẽn ra. Bạn hãy đơn giản để cho hai tay mình chuyển dịch khi cần để điều tiết việc kéo ra. Có thể bạn muốn giơ bàn tay có năng lượng orgone chết lên và để cho các hướng đạo rút nó ra khỏi tay.
Một kỹ thuật khác dùng hai bàn tay etheric của bạn để kéo năng lượng tắc nghẽn ra khỏi trường năng lượng của bệnh nhân. Để kéo năng lượng đó ra ngoài, hãy tưởng tượng là các ngón tay etheric của bạn hiện ra rất dài, hoặc những phần etheric của các ngón dài ra và thâm nhập vào thân thể bệnh nhân và chỉ đơn giản xúc năng lượng như cái xẻng hoặc cào gọn năng lượng lại để xúc. Bạn chỉ đơn giản kéo nó lên khỏi hào quang và dùng tay giữ lấy, trong khi các hướng đạo rọi sáng nó, nghĩa là tiếp sinh lực cho nó tới khi nó thành ánh sáng trắng và bạn hãy buông nó ra (như vậy bạn sẽ không để năng lượng chết tích tụ trong phòng mình). Sau đó, với cương vị thầy chữa, bạn hãy đi vào để xử lý nhúm năng lượng bên cạnh. 


Khi thấy thích hợp, bạn cũng có thể kéo năng lượng tắc nghẽn ra bằng cách dùng một cái muôi bằng tinh thể, cái muôi này chộp lấy năng lượng và kéo ra ngoài (xem chương 24). Tinh thể là một dụng cụ rất mạnh trong loại thao tác này, vì nó tác động như một chùm laser: Nó đi vào, chặt và gom năng lượng lại để bạn kéo ra ngoài cho các hướng đạo chuyển nó thành ánh sáng trắng.
Không phải bất cứ lúc nào dùng tinh thể cũng tốt. Một số người đúng là quá nhạy cảm đối với lối chặt năng lượng ra như vậy. Đừng bao giờ dùng tinh thể sau khi tiến hành thao tác vầng ketheric mẫu (một thao tác trình độ cao sẽ được giải thích sau). Việc sử dụng tinh thể lúc bấy giờ đúng là có thể xé thao tác mẫu ra. Thao tác tinh thể không cần thiết cho bệnh nhân sau thao tác mẫu; nó phải được thực hiện trước một cách đầy đủ (nghĩa là trong bất cứ khu vực nào của thân thể). Trường hợp Mary được mô tả ở trên không sử dụng tinh thể.
Trong khi thực hiện thao tác này, thầy chữa có thể chụp quét các vầng hào quang để xem các luân xa hay các cơ quan có cần được tái cấu trúc tại các mức mẫu không. Các hướng đạo sẽ lựa chọn là có thao tác hay không thao tác tại mức etheric mẫu (thứ năm) hay tại mức ketheric mẫu (thứ sáu). Có thể chỉ thực hiện thao tác mẫu sau khi đã hoàn thành tốt việc làm sạch ở bốn vầng đầu tiên của hào quang. Thực tế là nếu hào quang quá bẩn thì đôi khi khó thấy được mức etheric mẫu qua đám năng lượng thẫm màu.
Nếu các hướng đạo quyết định thực hiện thao tác ketheric mẫu (vầng thứ bảy); thì thầy chữa phải tháo bỏ các tinh thể khỏi thân thể bệnh nhân, bởi vì tinh thể giúp cho việc giữ bệnh nhân tại thân. Đối với thao tác ketheric mẫu, bệnh nhân cần thiết phải xuất thần một phần; nếu không thì có thể bệnh nhân sẽ phải chịu nhiều đau đớn và ta sẽ không thực hiện được thao tác này. Một lần tôi đã thử khâu một vết rách nhỏ trong vầng thứ bảy mà không tháo bỏ các tinh thể khỏi thân thể bệnh nhân. Bệnh nhân này bắt đầu kêu thét lên vì đau sau khi thao tác được hai giây (hai tay tôi chưa chạm vào người). Tôi nhanh chóng tháo bỏ các tinh thể, kết thúc việc khâu và chữa trị một viêm nhiễm rộng màu đỏ do tôi gây nên tại các mức 1, 2, 3 và 4 bằng các kỹ thuật thanh lọc mô tả ở trên.
Nếu các hướng đạo quyết định thực hiện thao tác etheric mẫu (vầng thứ năm) vào thời điểm này của chữa trị thì không cần tháo bỏ các tinh thể. Tôi tin rằng sở dĩ như vậy là vì các thao tác etheric mẫu tiến hành trong không gian âm tính và không liên kết với thân thể theo lối "cảm nhận".
D. Bài tập để cho các hướng đạo đi vào thao tác trong trường năng lượng của bạn
Nếu bạn gặp khó khăn trong việc để cho các hướng đạo đi vào trường năng lượng của mình, tôi xin gợi ý bài tập sau đây (cũng có thể thực hiện bài tập này trước khi bắt đầu chữa trị nếu bạn muốn). Chỉ tập bài này sau khi bạn đã nạp cho trường của mình bằng bài tập 22 (Mường tượng) ở Chương 21.
Xét thấy trường hợp của bạn đã được nạp và làm cân bằng, hãy lặp lại bài tập trên và thay đổi nó chút ít giúp cho các hướng đạo vào được dễ dàng trong trường của bạn để tiến hành chữa trị.
Nếu bạn đã đặt tay lên ai đó rồi thì hãy nhẹ nhàng bỏ tay ra trước khi làm việc này. Hãy quay trở lại luân xa 1 của bản thân. Hãy xem nó xoay màu đỏ. Thở mau hai lần. Lúc hít vào lần thứ hai, bạn hãy đưa ý thức của mình lên luân xa 2 và để cho màu đỏ chuyển sang màu vàng cam ngả đỏ. Thở ra màu vàng cam ngả đỏ.
Tập trung vào luân xa 2. Hít vào màu vàng cam ngả đỏ. Thở nó ra. Lại hít vào màu vàng cam ngả đỏ và để cho nó chuyển sang màu vàng trong khi mường tượng lên luân xa 3. Hít vào màu vàng. Thở nó ra. Hít vào màu vàng và để cho nó chuyển sang màu lục trong khi bạn chuyển lên luân xa tim. Hít vào màu lục; thở nó ra. Hít vào màu lục, tự đưa mình lên luân xa họng; để cho màu lục trở thành màu xanh.

Hít vào màu xanh, thở nó ra. Hít vào màu xanh và tự đưa mình lên con mắt thứ ba khi màu xanh chuyển sang màu chàm. Hít vào màu tím; thở nó ra. Thở vào màu chàm và để cho nó sang màu trắng khi bạn tự đưa mình lên đỉnh đầu và ra khỏi chỏm đầu. Khi bạn đi lên qua đỉnh đầu, hãy để cho các hướng đạo đi vào trường năng lượng của bạn qua hậu diện mạo của luân xa họng. Bạn sẽ cảm thấy các hướng đạo tới quanh hai vai và đi xuống hai cánh tay, như một tấm phủ trên mình.
Có thể bạn cảm thấy trường năng lượng của bản thân trở nên đầy hơn. Lúc này, bạn có thể nhìn thấy hai cánh tay của hướng đạo nhập sâu vào hai cánh tay bạn và thấy luồng ánh sáng từ tay họ phát ra. Hãy thư giãn. Hãy để cho mình quen với cảm giác này. Nếu bạn cảm thấy có ai thôi thúc mình đặt hai tay lên một khu vực của thân thể mình thì hãy làm như vậy (về sau, hãy giúp một người bạn. Hãy để cho hai tay mình được hướng dẫn tới một nơi cần chữa trị trên thân thể người bạn này. Có thể nơi đó không phải là nơi mà mình nghĩ đến). Hãy để cho luồng năng lượng chữa trị tuyệt đẹp này hướng tư hai tay bạn mà đi vào yêu thương. Đừng bao giờ sợ việc đặt hai tay mình lên ai đó cùng với yêu thương.
4. Chữa trị mức etheric mẫu của hào quang (vầng thứ năm của trường hào quang )

Nếu các hướng đạo quyết định tiến hành thao tác etheric mẫu, thì thầy chữa sẽ được báo hiệu là đơn giản áp hai tay lên thân thể tại hai nơi, thường là bên trên hai luân xa và để cho hai tay lưu lại đó. Từ lúc này trở đi, các hướng đạo điều khiển mọi việc tiếp theo và thầy chữa sẽ rất thụ động.
Khi tôi đã tiến bộ trong thao tác chữa trị etheric mẫu, tôi bắt đầu chứng kiến toàn bộ các cuộc phẫu thuật diễn ra. Buổi đầu tôi thấy điều này khó mà tin được bởi vì các hoạt động hiện ra rất giống với một cuộc mổ ở mức thể chất do các phẫu thuật viên thực hiện tại phòng mổ của bệnh viện.
Dĩ nhiên tôi cũng nghĩ là tôi đang chiếu toàn bộ sự việc. Tôi yêu cầu hai người bạn của mình, vốn là hai nhà thấu thị rất giỏi, tới và tham dự một số buổi chữa để xem các trải nghiệm của chúng tôi có giống nhau không. Giống nhau.
Đây là cái mà tôi thường nhìn thấy một cách đều đặn: Khi tôi để cho hai tay mình nghỉ một cách thụ động trên thân thể bệnh nhân thì hai bàn tay etheric của tôi thường tự tách ra khỏi hai bàn tay thể chất và chìm sâu vào trong thân thể bệnh nhân. Lúc bấy giờ tay của các hướng đạo đang tiến hành thao tác etheric mẫu (tôi gọi họ là phẫu thuật viên) luôn đi vào hai tay etheric của tôi và tiến hành phẫu thuật theo đúng nghĩa của từ đó.
Khi tay họ làm việc này thì kích thước hai tai etheric của tôi bao giờ cũng phát triển to ra. Để tiến hành một cuộc phẫu thuật, các hướng đạo bao giờ cũng thọc những cái ống qua hai cánh tay tôi, xuyên xuống hai bàn tay và đi vào trong thân thể bệnh nhân. Nhìn bên ngoài thấy họ sử dụng toàn bộ trang bị dụng cụ mà một phẫu thuật viên bình thường vẫn dùng: Dao mổ, kẹp, kéo, kim, bơm tiêm v.v... Họ cắt, nạo các thứ ra, tiến hành ghép và khâu các thứ lại. Đến một lúc tôi nhìn thấy một bơm tiêm to lơ lửng dưới cánh tay mình và trong thân thể của một bệnh nhân mà các dây thần kinh tủy sống đang được trẻ hóa và cùng được khâu lại. Tôi nhìn lên bạn mình và hỏi "Bạn có thấy cái đó không?". Chị ta trả lời "Có" và tiếp tục mô tả cảnh tương tự mà tôi đã chứng kiến. Từ đó, chúng tôi cùng nhau tiến hành chữa trị nhiều lần và cái mà chúng tôi nhìn thấy luôn giống nhau.
Toàn bộ thao tác này được tiến hành ở mức thứ năm của trường hào quang. Vầng này hiện ra tồn tại trong không gian âm tính, như đã mô tả ở Chương 7. Đối với tôi, qua tri giác cao cấp của mình, không gian âm tính giống như một âm bản nhiếp ảnh mà mọi vùng tối là sáng và mọi vùng sáng là tối. Trong không gian âm tính, tất cả các vùng ta cho là rỗng đều đầy và mọi vùng ta cho là đầy đều hiện ra trống rỗng. Tại mức này, mọi cái thuộc về không gian rỗng nhìn có màu xanh cobalt thẫm và mọi đường nét hào quang hiện ra là những không gian rỗng nằm trong trường màu xanh cobalt đó. Một khi người ta đã vào trong mức này của thực tại thì nó lại có vẻ như hoàn toàn bình thường.
Mức thứ năm là mẫu cho mọi hình thái tồn tại trong bình diện thể chất. Nếu một hình thái bị gãy vỡ trong trường hào quang thì sẽ phải tái thiết lập nó tại mức thứ năm của trường để cho nó lấy lại hình thái lành mạnh trên bình diện thể chất. Như vậy là toàn bộ phẫu thuật hào quang phải được thực hiện ở vầng thứ năm của trường. Phẫu thuật etheric lúc bấy giờ nhất thiết là nhiệm vụ tạo ra một không gian âm tính mới để cho cơ thể etheric của bệnh nhân phát triển vào trong đó và trở nên lành mạnh.

Suốt thời gian cuộc mổ loại này, mà tôi gọi là phẫu thuật tâm linh, thầy chữa không thể chuyển dịch hai tay bất kỳ trong hoàn cảnh nào. Thực tế là hầu hết thời gian thầy chữa phải giữ hai tay bất động đến nỗi thật khó mà làm cách nào cũng được. Mỗi lần tôi thử sức, tôi đều phải cố gắng nhiều. Việc này đòi hỏi nhiều kiên nhẫn để chỉ ngồi tại đó, có lần tới 45 phút, trong khi các hướng đạo tiến hành thao tác của họ.
Sau khi xong việc, các hướng đạo thường tiến hành việc khử khuẩn và bắt đầu đóng kín vết mổ lại một cách từ tốn. Hai tay etheric của thầy chữa dần dà bắt đầu nổi lên và hòa vào với hai tay thể chất. Một lần nữa, việc này lại đòi hỏi kiên nhẫn (đôi lúc tôi chán quá). Cuối cùng, bàn tay đặt ở phần dưới của thân thể bệnh nhân (thường là tay phải của tôi) lỏng ra và các hướng đạo thường hướng cho tôi đưa tay phải lên phía trên, tới chỗ tay trái. Sau đó tôi dần dần bỏ tay ra, rồi từng bước bằng động tác nhẹ nhàng của bàn tay và ngón tay, tôi tái liên kết khu vực mới được tái cấu trúc của etheric mẫu với mẫu của phần thân thể bao quanh nó. Hai tay thầy chữa không di chuyển ra khỏi thân thể bệnh nhân cho đến khi đóng xong vết mổ và các trường hào quang mới cũng như cũ được tái liên kết.
Ta hãy trở lại với bệnh nhân Mary. Trong những phần cuối của thanh nạp, Mary nằm dài trên bàn chữa trị trong trạng thái thư giãn thanh thản. Chị đã trôi giạt một chút ra khỏi thân thể mình và đang nghỉ ngơi. Trường hào quang đang tiếp tục sử dụng năng lượng đã thu nhận được để tự chữa trị cho nó. Mary đã sẵn sàng để nhận thao tác etheric mẫu tại nơi thoát vị khe của chị. Trong khi bạn đặt hai tay mình lên các luân xa 3 và 4 (hình 22-15) thì hai tay etheric của bạn bắt đầu bồng bềnh xuống dưới và bạn bắt đầu nhận biết rõ ràng hơn bên trong thân thể qua bất cứ phương thức tiếp cận nào tốt nhất. Bạn cảm thấy, nghe thấy hoặc nhìn thấy nó. Bạn đang ngồi trong không gian âm tính, nhưng không gian đó lại hình như hoàn toàn bình thường. Trường năng lượng của bạn bao quanh thân thể nở ra khi tốc độ rung động của bạn tăng lên. Bạn cảm thấy một sự hiện diện ở đàng sau bạn, thậm chí có thể của hơn một nhân vật. Nhẹ nhàng, bao giờ cũng nhẹ nhàng như thế, các hướng đạo trượt qua trường hào quang của bạn. Điều đó dường như rất quen thuộc, rất thoải mái và trên tất cả, dường như diệu kỳ. Bạn đã được nâng lên một trạng thái thanh thản thần tiên. Bạn sống trong yên bình cùng vũ trụ. Khi bạn ngồi với tinh thần quy phục quyền lực sáng tạo cao cấp của chính mình, bạn quan sát thấy tay của hướng đạo trượt vào trong thân thể bệnh nhân qua hai bàn tay etheric của bạn. Bạn theo dõi hai bàn tay ấy khâu đóng lỗ thoát vị ở cơ hoành. Ban đầu bạn còn hoài nghi, nhưng về sau điều đó có vẻ tự nhiên đến mức bạn cũng đơn giản để cho nó diễn ra. Điều quan trọng ở đây là bệnh nhân khỏe lên. Bạn tin tưởng vào kiến thức nó vượt ra ngoài những định nghĩa bản thân thông thường chật hẹp của bạn và để cho việc chữa trị được tiến hành. Các hướng đạo sửa chữa chỗ rách và tái liên kết mẫu mới được tái cấu trúc với phần còn lại của mẫu vầng thứ năm. Sau đó bạn cảm thấy họ bắt đầu thu hồi năng lượng của họ lại.
Bạn sẽ ngạc nhiên thấy hai bàn tay etheric của mình đi sâu đến thế vào trong trường năng lượng của bệnh nhân. Bạn đã không nhận thấy năng lượng đi vào nhiều đến thế, nhưng bây giờ khi nó bắt đầu rút ra, bạn sẽ cảm thấy nó di chuyển ra ngoài. Có thể lúc này bệnh nhân cũng nhận thấy nó. Tiếp đó bạn sẽ cảm thấy bản thân có được thêm khả năng điều khiển bệnh nhân lơi ra, và bạn bắt đầu thu hồi nó dần dần. Khi nó đã được thu hồi hoàn toàn, bạn hãy gập các ngón tay lại một chút để tập cử động tay. Bây giờ cùng với tay phải bạn hãy chìm vào bên trong luân xa 4 và buông lơi tay trái. Từ từ và nhẹ nhàng bỏ tay trái ra. Bạn sẵn sàng chuyển tới thao tác vầng thứ bảy. Nhưng trước hết xin thêm một vài lời khuyên về chữa trị etheric mẫu.
Suốt trong cuộc phẫu thuật etheric mẫu, các hướng đạo điều khiển các tần số màu, hướng dòng chảy và vị trí thao tác. Bạn càng tin tưởng và làm theo thì bạn sẽ càng đủ sức tiến hành. Cộng thêm các thủ tục phẫu thuật "thông thường", đôi lúc các hướng đạo còn hướng cho bạn, là thầy chữa, giữ bất động cả hai bàn tay và hai cánh tay ngang qua người và yêu cầu bạn tự đưa bản thân lên những rung động cao hơn và để cho lực mạnh của màu xanh nhạt ngả hồng, đôi khi thậm chí của màu ánh bạc đi vào. Bạn không được chuyển dịch trong hoàn cảnh này vì dòng chảy rất mạnh và có thể làm gãy vỡ không những trường của bệnh nhân mà cả trường của bạn nữa. Sau khi đã rót đủ năng lượng sang để đánh long hình thể, bấy giờ các hướng đạo đảo ngược dòng chảy năng lượng và hút cho năng lượng đã bị đánh long đi ngược trở lên và ra ngoài. Đây là mức cao hơn của chữa trị và có thể sử dụng các năng lượng mức thứ sáu. Nó lấy bỏ các hình thai etheric mẫu đặc thù ra khỏi trường hào quang, như các dạng tâm linh của virus, vi khuẩn hoặc trong một trường hợp, những vật hình hạt màu trắng từ máu của một người bị bệnh bạch cầu, đến mức chúng không thể tái sinh trong thân thể người đó.
Thỉnh thoảng một nhóm nhỏ chúng tôi, những người đã phá triển tri giác cao cấp, gặp nhau để hỗ trợ cho nhau về phương diện cuộc sống riêng tư và xử lý các vấn đề nổi lên trong cuộc sống của chúng tôi xuất phát từ chỗ là thấu thị, thiên lý nhĩ hay thiên lý nhãn. Chúng tôi cũng tiến hành chữa trị lẫn nhau có tính chất trao đổi (lần lượt từng người đóng vai bệnh nhân). Việc làm này rất phong phú vì chẳng những thầy chữa mà cả "bệnh nhân" cũng thấy được điều đang diễn ra. Việc làm này đã xác minh nhiều nhận thức của tôi và cũng giúp tạo ra một khuôn khổ rõ ràng dùng mô tả các trải nghiệm ấy. Chúng tôi học cách nhìn vào bên trong từng vầng hào quang, nghiên cứu xem trải nghiệm đó đúng là cái gì và những thủ tục chữa trị mới có thể có từ thông tin mà chúng tôi nhận được.

5. Chữa trị ketheric mẫu hay tái cấu trúc khung kẻ ô óng vàng của hào quang (vầng thứ bảy của trường hào quang). 
Nhiều lần, khi trường hào quang biến dạng ở mức thứ năm thì nó cũng biến dạng ở mức thứ bảy. Cũng cần thiết phải tiến hành tái cấu trúc ketheric mẫu. Việc này thường làm trước khi thầy chữa tập trung vào chữa trị tại lớp thứ sáu, mặc dầu vào thời điểm chữa trị ấy một vài tần số của lớp thứ sáu đã tự động đi vào. Thao tác tại mức thứ bảy rất khác thao tác tại mức thứ năm ở chỗ thầy chữa rất hoạt động. Trong mức thứ năm, nhiệm vụ chủ yếu của thầy chữa là quy phục và làm theo. Còn ở đây, điều thách thức thầy chữa là rất hoạt động trong việc thở cũng như trong động tác của các ngón tay và bàn tay, vậy mà lại vẫn nhạy cảm cao độ và tập trung tại một mức tần số cao. Việc đó đòi hỏi tập trung tâm trí nhiều và điều khiển việc thở để đạt tới mức thứ bảy. Ánh sáng óng vàng tại mức này rất mạnh và đàn hồi. Nhiều khi nó hiện ra như những sợi óng vàng bé tí rất chắc.
Các hướng đạo của bệnh nhân bao giờ cũng tới dự các buổi chữa trị. Nếu bạn tỉnh táo, bạn sẽ nhìn thấy họ cùng bệnh nhân bước vào phòng chữa trị. Tại thời điểm này của chữa trị, thường họ kéo bệnh nhân xuất thần ra ngoài thân thể và chăm sóc đến mức người đó có thể thư giãn sâu cho phép tiến hành thao tác mẫu. Thường thường trải nghiệm của bệnh nhân là thấy mình bồng bềnh trong một trạng thái yên bình. Bệnh nhân thường không nhận thức được rằng mình đã chuyển dịch sâu như thế nào vào trạng thái biến đổi ý thức cho đến lúc tỉnh dậy hay cố gắng đứng lên vào lúc kết thúc chữa trị.
Thao tác ketheric mẫu, thao tác tái cấu trúc vầng thứ bảy với ánh sáng óng vàng, gồm hai phần chính: Làm sạch và tái cấu trúc khung kẻ ô của các cơ quan, cơ, dây thần kinh hay các phần khác của thân thể và làm sạch cùng với tái cấu trúc các luân xa. Tay của hướng đạo thao tác trực tiếp qua tay thầy chữa theo kiểu lớp phủ. Các hướng đạo đi xuống hai bờ vai, đi vào hai cánh tay và hai bàn tay của thầy chữa. Những sợi óng vàng bé tí đi ra khỏi các ngón tay thầy chữa lúc này di chuyển rất nhanh theo hướng dẫn. Các sợi óng vàng này di chuyển nhanh hơn nhiều so với những động tác ngón tay nhanh nhẹn rối rắm của thầy chữa. Để tái cấu trúc khung kẻ ô ketheric của một cơ quan, các hướng đạo thường đưa khung kẻ ô của cơ quan đó ra ngoài thân thể. Điều này chỉ có thể xảy ra nếu ý thức của bệnh nhân cho phép làm. Tôi đang nói đến ý thức sâu (deeper consciousness - ND), chứ không phải nhận biết hữu thức (conscious awareness - ND). Vào những lúc này, bệnh nhân ở trong trạng thái biến đổi, liên lạc với các hướng đạo mà sau đó, khi trở lại với thân thể mình, bệnh nhân này có thể nhớ hoặc không nhớ được.
A. Tái cấu trúc cơ quan ketheric mẫu
Hai bàn tay thầy chữa thường di chuyển với một lực sáng ghê gớm và một sự bùng lên mạnh mẽ của năng lượng để tháo gỡ trường ketheric của cơ quan. Lúc này cơ quan đó lơ lửng bên trên thân thể, ở vị trí này nó được làm sạch và tái cấu trúc bằng các động tác ngón tay nhanh nhẹn hơn dệt thành cái khung kẻ ô etheric màu xanh lên trên mẫu óng vàng những sợi óng vàng ngả trắng. Không gian bên trong thân thể được tinh khiết hóa và khử khuẩn bằng ánh sáng trước khi trả cơ quan về vị trí cũ. Khi việc tái cấu trúc và khử khuẩn đã hoàn tất, cơ quan đó chỉ đơn giản trượt trở lại vào trong thân thể. Có cảm giác hầu như nó được hút vào lại bên trong. Rồi nó được khâu vào đúng chỗ cũ và được bơm đầy ánh sáng màu xanh để tạo sức mạnh cho nó. Sau đó cả khu vực thường được bơm đầy ánh sáng trắng làm dịu đau tựa bông có tác dụng như một thuốc gây mê sử dụng bên trong. Sau đó toàn bộ khu vực thường được phủ một lớp băng gạc năng lượng óng vàng để bảo vệ.
Những ví dụ về chữa trị như vậy được trình bày ở Hình 22-16 và hình 22-17. Một bệnh nhân gọi điện thoại cho tôi, nói rằng vú của chị có một chỗ sưng lên. Các bác sĩ của chị không nói được là do nhiễm khuẩn hay khối u. Họ thử hút nó mà không được và do vậy đã dự kiến mổ. Khi tôi trao đổi với chị qua điện thoại, trong trí tôi đã có ngay bức tranh cho thấy một khối đỏ thẫm ở vú trái của chị, kèm theo những đốm màu xám thẫm lan rộng ra dưới nách, tại đây có thể có những hạch bạch huyết. Để kiểm tra kết quả "nhìn thấy" của mình, tôi hỏi chị có phải cục đó khu trú ở vú trái không, ở ngay bên trái dưới núm vú? Khi điều này được khẳng định, tôi nói tiếp với chị rằng tôi hoàn toàn chắc chắn không phải ung thư mà là một loại nhiễm khuẩn như viêm vú. Tôi có thể nói như vậy vì màu đỏ thẫm biểu thị nhiễm khuẩn. Tôi cũng nghe tiếng các hướng đạo bảo tôi rằng đó là một dạng viêm vú. Tuy nhiên tôi cũng nhìn thấy các hạch bạch huyết ở nách có màu xám rất thẫm. Điều này làm tôi bối rối. Tôi bảo chị rằng vấn đề căn bản không phải là chỗ sưng ở vú mà là những hạch bạch huyết tắc nghẽn và chị cần được tinh khiết hóa toàn thân cũng như tại chỗ. Vài ngày sau đó, khi phẫu thuật, bác sĩ cắt bỏ các tuyến vú nhiễm khuẩn và chẩn đoán chị bị viêm vú nguyên nhân do các hạch bạch huyết tắc nghẽn.
Ba ngày sau khi mổ, khi chị đến chữa trị chỗ tôi thì hệ thống năng lượng của chị tắc nghẽn nặng. Hệ bạch huyết của chị bị tắc nghẽn rộng trên toàn bộ thân thể, biểu hiện ra bằng những vùng có màu lục thẫm ở hai bên xương ức và bên trái bụng. Toàn bộ trường năng lượng của chị màu hơi xám. Vùng màu đỏ ở vú trái phần lớn đã trở nên sáng sủa, chỉ còn vết sẹo hiện ra như một vệt đỏ tươi trong hào quang, xung quanh có màu đỏ nhạt hơn do phẫu thuật để lại. Sau khi tiến hành thao tác thanh nạp và làm sạch những cơ thể hào quang bên dưới, các hướng đạo lấy toàn bộ hệ thống bạch huyết của chị ra và làm sạch nó trước khi đưa lại vào vị trí cũ theo như cách mô tả ở trên (Hình 22-16). Toàn bộ thân trên của chị được nạp lại và được che chắn; lúc đầu bằng ánh sáng xanh, sau đó bằng ánh sáng óng vàng, để lại cả hệ thống bạch huyết (ở vầng thứ bảy) nhìn rất trong trẻo và óng vàng. Vệt đỏ đã biến mất. Lưu ý rằng hình 22-16 cho thấy các hướng đạo thông qua thầy chữa đang thao tác làm sạch hệ thống bạch huyết, có mặt các hướng đạo của bệnh nhân ở phía đầu đang giữ cho người đó xuất thần ra khỏi thân trong khi tiến hành thao tác mẫu.
B. Tái cấu trúc luân xa ketheric mẫu
Một tiến trình tương tự cũng xảy ra trong khi tái cấu trúc luân xa, nhưng không hề tháo gỡ các luân xa. Luân xa bị hư hại theo mấy dạng chủ yếu. Luân xa có thể bị rách toang màn chắn bên trên luân xa có thể bị thương tổn. Một cuộn xoáy có thể bị tắc nghẽn và xoay chậm lại, đỉnh luân xa không cắm đúng vào tâm hoặc vùng rễ của luân xa, hay một cuộn xoáy có thể nhô ra ngoài hoặc lắc lư bên trên và trông tựa như cái lò xo đã bật ra. Toàn bộ luân xa có thể bị hư hỏng phần lớn, hoặc một phần nhỏ  của nó có thể bị tổn thương. Ví dụ, trong trường hợp của Mary với thoát vị khe như vậy, một trong số các cuộn xoáy nhỏ của đám rối thái dương trông tựa như cái lò xo đã bật ra. Để chữa trị nó, bạn cần phải đẩy nó vào lại và khâu nó xuống, tái cấu trúc màn chắn và cho nó một cái nắp bảo vệ nhằm để cho nó lành lại sau một thời gian. Toàn bộ việc này được tiến hành cùng với các hướng đạo, họ điều khiển hai tay bạn và ánh sáng chữa trị. Tay bạn thường di chuyển một cách tự động.
Ta hãy trở lại với bệnh nhân Mary lúc này đã được nâng cho xuất thần ra khỏi thân, trong một trạng thái biến đổi và giữa sự chăm sóc của các thầy dạy tâm linh của chị. Do bạn đã chữa trị xong mức thứ năm và có thể thấy được chỗ rách ở vầng thứ bảy, bạn biết rằng đã đến lúc phải chuyển dịch ý thức của mình lên mức thứ bảy để thao tác. Bạn bắt đầu bằng việc tăng tốc độ thở cọ qua mũi. Trong khi nhịp thở của bạn tăng lên, bạn tập trung tâm trí càng tốt càng hay vào việc nâng cao ý thức của mình. Đừng lo lắng về chuyện thông khí; bạn sẽ dùng toàn bộ năng lượng mà bạn lấy vào cho việc chữa trị. Khi bạn lên tới vầng thứ bảy, bạn bắt đầu trải nghiệm Minh Triết Vũ Trụ, mọi cái ở đó được hiểu là phải tuyệt hảo. Chẳng mấy chốc ánh sáng óng vàng bắt đầu tuôn ra khỏi tay bạn, vì các hướng đạo tái liên kết qua vầng thứ bay của bạn (Hình 22-17).



Hai tay bạn chuyển dịch hầu như không tùy ý bên trên luân 3 của Mary. Bạn bắt đầu nhìn thấy những sợ ánh sáng óng vàng đang khâu lại cuộn xoáy nhỏ trong luân xa của Mary. Các ngón tay của bạn di chuyển càng nhanh càng tốt; những sợi ón vàng di chuyển nhanh hơn mấy nghìn lần. Ánh sáng óng vàng buộc cuộn xoáy biến dạng kia phải trở về vị trí bình thường của nó. Bạn không tin là có biết bao nhiêu năng lượng đang tuôn chảy qua bạn. Bạn ngạc nhiên tại sao thân thể mình lại có thể chịu được được như vậy. Bạn tiếp tục thở khi màn chắn bảo vệ được tái cấu trúc. Bạn có thể ngạc nhiên nếu Mary nhận biết tất cả chuyện đó và chị ta muốn biết cái gì đang diễn ra, nhưng bạn không thể nói chuyện. Có quá nhiều việc phải làm để giữ tập trung tâm trí. Cuối cùng thao tác hoàn tất và luân xa trở lại bình thường. Nhịp thở của bạn chậm lại. Bạn vui mừng thấy đã kết thúc. Tay bạn có thể bị đau nhưng bạn cảm thấy kỳ diệu.
Thật nhanh tay, bạn nhẹ nhàng tiến hành thanh nạp qua các luân xa bên trên và sang một vị trí ở phía đầu bàn xoa bóp. Hãy đặt tay lên hai bên đầu Mary, nhẹ nhàng cho chạy năng lượng vào hai thái dương bệnh nhân để điều chỉnh mọi mất cân bằng phải/trái còn vương lại. Bây giờ các vầng thứ năm và thứ bảy đã được tái cấu trúc và có thể giữ vững được hình dáng hào quang, đã đến lúc nạp lại năng lượng cho nó ở mức thứ sáu, với tình yêu thương thượng giới.
6. Chữa trị ở mức thượng giới
(vầng thứ sáu của trường hào quang)

Để chữa trị ở vầng thứ sáu của truờng hào quang, bạn sẽ thao tác chủ yếu qua luân xa tim, luân xa con mắt thứ ba và luân xa đỉnh đầu. Hãy khum hai bàn tay bạn bên trên con mắt thứ ba của bệnh nhân, các ngón tay sát vào nhau, hai ngón cái bắt tréo nhau; nâng các rung động của bạn lên để đạt tới ánh sáng rồi để cho nó chảy xuống qua trước mặt bạn mà đi vào khu vực trung tâm của não bệnh nhân (hình 22-18). Về tâm linh, bạn hãy vươn tới thực tại tâm linh cao cấp mà bạn biết, đầu tiên bằng cách liên kết qua tim với tình yêu thương vạn vật và sau đó bằng cách vươn lên cùng với ý thức đó tới ánh sáng. Điều rất quan trọng là đi qua tim và hãy chờ cho đến khi bạn vào trong trạng thái yêu thương vạn vật trước khi đi lên đỉnh đầu; nếu làm khác đi thì việc chữa trị có thể trở nên rất tâm thần. Nó phải được kèm theo tình yêu thương sâu sắc từng chút xíu trên thân thể bệnh nhân là Mary. Việc liên kết với ý thức Chúa Cứu Thế hay với tình yêu thương vạn vật đòi hỏi phải giữ vững hình ảnh của ai đó trong tim bạn và đi vào trạng thái chấp nhận hoàn toàn và mong muốn tích cực cho hạnh phúc và cuộc sống tiếp tục của người này. Đó là lễ chúc mừng trong tình yêu cuộc sống con người. Điều này có nghĩa là bạn phải đi vào trạng thái tồn tại ấy, chứ không phải chỉ hình dung ra nó. Duy trì trạng thái đó, bạn hãy đạt tới ánh sáng và thực tại tâm linh rộng nhất, cao nhất mà bạn có thể trải nghiệm.
Để nâng cao các rung động của mình bạn sử dụng cả hai nguyên lý hoạt động và lĩnh hội. Thứ nhất, hãy đơn giản cố gắng nâng tần số các rung động của bạn. Điều này được tiến hành qua việc thở, cọ không khí vào phần sau của họng, qua việc tập trung thiền định và bằng sự vươn lên đi vào ánh sáng nhờ mường tượng. Về chủ quan, có cảm tưởng như thể là bạn ngước nhìn vào ánh sáng và đạt tới nói. Bạn cảm thấy nhẹ hơn và ít gắn chặt vào thân thể mình khi bạn đi lên. Cứ tựa như một phần ý thức của bạn, theo đúng nghĩa của từ, đi lên cột sống và trải rộng ra từ thân thể bạn và đi vào ánh sáng trắng. Các cảm nghĩ của bạn trở nên mỗi lúc một dễ chịu khi bạn đi vào trong ánh sáng. Bạn mỗi lúc một cảm nhận có thêm an toàn muôn mặt cùng tình yêu thương vạn vật bao quanh bạn và thâm nhập sâu vào bạn. Trí tuệ bạn phát triển và bạn hiểu được những khái niệm rộng rãi mà bạn không thể hiểu được trong trạng thái bình thường. Bạn có thể chấp nhận một thực tại lớn hơn và thật dễ dàng hơn cho các hướng đạo là đưa các khái niệm vào thông qua bạn, bởi vì bạn không còn có định kiến về bản chất của thế giới; nghĩa là bạn đã tháo gỡ được một vài tắc nghẽn trong đầu óc. Mỗi buớc lên cao hơn để đi vào ánh sáng là một bước giải thoát cho bạn. Khi bạn thực hành qua nhiều năm, bạn có thể dẫn kênh được những năng lượng và những khái niệm ngày càng cao.
Giờ thì bạn đã đạt tới một trình độ nào đó trong việc tự nâng mình lên, bạn hãy ngừng vươn tới và hãy để cho ánh sáng trắng tràn ngập trường hào quang của bạn lúc này đã được nâng tới một rung động hài hòa với ánh sáng trắng. Ánh sáng trắng sẽ tuôn chảy xuống qua truờng hào quang của bạn mà đi vào trường hào quang của bệnh nhân.
Sau khi ánh sáng trắng tuôn chảy xuống vào trong khu vực trung tâm của não bệnh nhân và các rung động của khu vực này được nâng lên đến tần số đó, bạn hãy đi lên tới mức tiếp theo của rung động. Khi bệnh nhân đã đạt tới mức đó, bạn hãy di chuyển lên mức tiếp theo và theo kiểu từng bước này khu vực trung tâm của não bệnh nhân tràn đầy ánh sáng óng vàng ngả trắng pha cùng các màu sắc trắng sữa. Đôi khi bệnh nhân thấy những hình ảnh tâm linh suốt giai đoạn này của chữa trị hoặc "ngủ thiếp đi" (theo tôi, điều này đơn giản có nghĩa là bệnh nhân chưa có khả năng giữ lại ký ức về trải nghiệm đó khi trở lại trạng thái thông thường của thực tại. Vài hôm nữa là họ sẽ có khả năng ấy và quá trình này giúp nó phát triển).
Do chỗ phương thức dẫn kênh này quá mạnh, bạn phải búng nhẹ hai tay để ngắt liên kết với luân xa 6 trước khi chuyển sang bước tiếp theo của quá trình chữa trị. Sau khi làm cho vùng đồi não sáng ngời lên và bơm đầy hào quang bằng ánh sáng trắng, nếu có thời gian tôi thường làm một số thao tác trực tiếp lên các mức bên ngoài của hào quang. Giơ hai tay lên, lòng bàn tay nhìn xuống, dùng các ngón tay vạch thành đường trong không khí, tôi thường làm động tác "chải" cho các tia ánh sáng của cơ thể thượng giới. Động tác này tựa như động tác luồn các ngón tay vào mái tóc và kéo tóc đứng lên. Bạn bắt đầu bằng cách đưa tay vào gần da bệnh nhân rồi đưa lên theo hướng thẳng góc với thân thể họ, như thể bạn nâng hào quang lên vậy. Động tác này làm cho bệnh nhân cảm thấy nhẹ nhõm và nâng cao cơ thể thượng giới bằng cách thêm ánh sáng cho nó và làm nó rộng ra. Nếu bạn có thời gian xin hãy thử làm xem. Mary rất thích động tác này.
7. Đóng kín mức ketheric mẫu
Sau khi làm cho mức thượng giới tươi sáng lên và mở rộng ra, tôi di chuyển lên mức ketheric, cái hình thái vỏ trứng dường như có nhiệm vụ bảo vệ hào quang. Tôi làm nhẵn, làm thẳng và làm vững hình thái này bằng cách di chuyển hai tay bên trên rìa ngoài của nó. Có thể nó quá chật xung quanh bàn chân, quá rộng ở một số nơi, có những chỗ gồ lên hay những dải hẹp lại trong đó (một số dải này có liên quan đến các tiền kiếp sẽ được luận bàn ở Chương 24). Có thể nó mỏng mảnh ở vài ba nơi và thậm chí có cả những nứt rạn hoặc lỗ thủng trong đó. Các tổn thương ấy cần được sửa chữa và toàn bộ hình thái này cần lấy lại dạng quả trứng có vỏ đẹp chắc. Tôi làm những việc đó bằng thao tác đơn giản. Nếu có chỗ gồ lên thì tôi làm nhẵn nó. Nếu nó cần ánh sáng, tôi cho chạy năng lượng vào cho đến khi nó sáng ngời lên. Nếu nó cần được làm vững thêm, tôi cho chạy năng lượng củng cố vào. Các mức bên ngoài của hào quang chuyển động và dễ thao tác, do đó phần này của chữa trị mất rất ít thời gian.
Để hoàn thành chữa trị ở lớp thứ bảy của hào quang, tôi vươn tới bên trên đầu bệnh nhân và đưa hai tay mình lại sát nhau. Tay tôi ở bên trên đầu bệnh nhân khoảng 2 1/2 fut. bên trong tấm chắn hình vỏ trứng của hào quang. Tôi làm một động tác lướt nhanh rộng ra xung quanh toàn bộ thân thể bệnh nhân. Tay trái tôi vòng sang trái và tay phải vòng sang phải. Năng lượng tuôn chảy trong một hình cung từ hai tay tôi lúc này vươn từ bên trên đầu tới bên dưới bàn chân bệnh nhân, tăng cường cho toàn bộ mức thứ bảy của hào quang.

Trong khi tôi từ từ di chuyển hai tay để phác ra một đường tròn ánh sáng óng vàng xung quanh ngực bệnh nhân thì toàn bộ mức vỏ hình trứng của hào quang được củng cố. Để củng cố vầng thứ bảy của Mary và đặt cho chị một tấm chắn bảo vệ nhằm tiếp tục thao tác chữa trị trong hào quang, bạn hãy nâng hai tay lên bên trên thân thể chị. Bạn vẫn đang ngồi ở tư thế bên trên đầu bệnh nhân như được trình bày ở Hình 22-19. Chiều cao của vầng thứ bảy thay đổi giữa 2 1/2 đến 3 fut bên trên thân thể. Nếu bạn không nhìn thấy nó, hãy cảm nhận nó một cách nhạy bén bằng hai tay trong không gian bên trên Mary. Bạn sẽ cảm thấy một áp lực rất tinh tế khi bạn di chuyển vào trong vầng thứ bảy. Hãy giữ hai tay sát nhau, lòng bàn tay nhìn xuống rìa ngoài của hào quang Mary. Bạn sẽ phải thở cọ để giữ mức năng lượng của bạn và ý thức của bạn ở vầng thứ bảy. Bây giờ hãy cho ánh sáng óng vàng tuôn ra từ hai tay bạn, tạo thành một hình cung từ đầu đến chân trong vầng thứ bảy của Mary. Hãy giữ vững hình cung này và từ từ nới rộng nó ra bằng cách đưa hai tay ra xa nhau để ôm vòng lấy thân thể bệnh nhân. Tay phải bạn vòng sang phải và tay trái bạn vòng sang trái. Hoàn chỉnh vòng tròn đầy đủ ra tứ phía đến mức bạn phác ra một cái vỏ hình trứng bao quanh Mary.
Khi đã hoàn tất việc này, tôi ngừng liên kết giữa trường hào quang của mình và của bệnh nhân bằng một động tác lắc tay nhanh nhẹ và di chuyển sang phía phải của bệnh nhân. Bây giờ tôi tái liên kết với vầng thứ bảy từ bên ngoài (khi tôi tiến hành chữa trị trước đó, tôi được liên kết vào bên trong hệ thống năng lượng. Bây giờ tôi đã thoát ra và không còn là một phần của dòng chảy đó nữa). Nhẹ nhàng đặt hai tay mình lên phía ngoài của vầng thứ bảy hình vỏ trứng, tôi lặng lẽ tưởng thuởng bệnh nhân của mình và chuyển giao lại cho chị việc chữa trị chị. Tôi tưởng thưởng con người thực của chị, tưởng thưởng khả năng của chị sáng tạo ra sức khỏe và cân bằng trong cuộc sống và tưởng thưởng phần nhỏ nhoi của tôi trong việc làm cho chị nhớ lại con người thực của chị. Sau đó tôi lại ngừng liên kết trường hào quang, ngồi xuống và trở về trạng thái tỉnh táo bình thường của ý thức (khi tôi đi vào chữa trị bên trong vầng thứ bảy, tôi cũng ở trong trạng thái biến đổi ý thức rất cao). Tôi tự trút mình nhập lại vào thân, giống hệt như xỏ tay vào găng vậy. Tôi tập trung vào hiện hữu bên trong mọi phần của thân mình. Tôi tưởng thưởng việc hóa thân của tôi, tưởng thưởng con người thực của tôi và điều mà tôi đã đến đây để làm. Lúc này tôi để cho bất cứ năng luợng chữa trị nào mà mình có thể cần đến được tuôn chảy vào người.
Thủ tục cuối cùng đó giúp cho thầy chữa không còn nghĩ đến bệnh nhân nữa, đến mức thầy chữa sẽ không "mang theo" bệnh nhân với mình trong cả tuần lễ. Cũng tốt khi tưởng thưởng bản thân bằng cách này, đến mức mà thao tác chữa trị có thể hợp nhất vào đời sống riêng tư của thầy chữa. Điều này không phải lúc nào cũng tự động xảy ra, bởi vì suốt trong bao nhiêu thời gian dùng cho chữa trị, thầy chữa ở vào trạng thái biến đổi ý thức. Có thể đôi lúc cảm thấy như thể một người tử tế nào đó đang làm mọi việc tốt đẹp này Tôi đã thấy phần đông thầy chữa mà mình quen biết gặp khó khăn trong đời sống và cần phải tưởng thưởng họ về điều này hơn là xét đoán họ về kinh nghiệm. Tôi tin rằng đó là toàn bộ phần rèn luyện để học hỏi yêu thương và thông cảm.
Bây giờ hãy lặp lại điều nói trên với bệnh nhân Mary. Bạn hãy chuyển sang phải bệnh nhân; nhẹ nhàng tiếp cận vầng thứ bảy của chị từ bên ngoài. Hãy tưởng thưởng chị ấy và hãy hoàn lại cho chị việc chữa trị chị. Bạn hãy ngồi xa Mary ra một chút trong phòng chữa trị. Bạn hãy tự trút mình nhập lại vào thân. Hãy tưởng thưởng bản thân và mục đích của bạn.
Thường bệnh nhân cần nghỉ ngơi một lát sau khi chữa trị và có thể sẽ bị chếnh choáng một lúc. Đây là thời gian thích hợp để bạn ghi chép ngắn gọn về chữa trị nhằm tham khảo về sau. Nếu đã thao tác etheric mẫu xong, tôi ra lệnh tuyệt đối cấm bệnh nhân tập thể dục và phải nghỉ ngơi cũng như ăn uống tốt trong ít nhất ba ngày.

Sau khi giải lao chốc lát, bạn hãy yêu cầu Mary ngồi lên rìa bàn vài ba phút trước khi đứng dậy, hoặc chị ấy có thể chóng mặt, Chị sẽ ngạc nhiên về điều bạn đã làm. Vào lúc này, điểm quan trọng là không trở về lại quá nhiều với ký ức tuyến tính, bởi vì việc đó sẽ kéo bệnh nhân ra khỏi trạng thái biến đổi ý thức. Bạn hãy giải thích gọn về điều bạn đã làm, chỉ vừa đủ vừa lòng bệnh nhân chứ không phải đủ để đảo lộn trạng thái thư giãn của họ.
Suốt trong buổi chữa, có lẽ bạn nhận thức được bất cứ thao tác nào thêm mà Mary có thể cần. Nếu vậy bạn hãy bàn bạc với bệnh nhân và căn dặn về việc họ sẽ trở lại trong tuần sau nếu cần.
Bạn vừa mới hoàn tất một buổi chữa đầy đủ. Bạn cảm thấy kỳ diệu. Hãy đưa cho Mary và cho bản thân bạn một cốc đầy tràn nước nguồn. Hình 22-20 cho thấy hào quang bệnh nhân Mary của bạn sau khi chữa trị. Hãy so sánh nó với hào quang chị ta trước khi chữa trị ở hình 22-4.
Đó là nét đại cương của chữa trị tổng phổ cơ bản. Suốt phần đầu của chữa trị trong vệc thanh nạp và làm sạch trước khi tiến hành thao tác mẫu, có thể là tôi dẫn kênh thông tin bằng lời nói từ các hướng đạo của bệnh nhân đã tới tham dự việc chữa trị. Bệnh nhân có thể đặt câu hỏi để các hướng đạo trả lời. Tuy nhiên ngay khi thao tác mẫu bắt đầu là tôi đã không thể nào làm hai việc cùng một lúc. Thao tác năng lượng mẫu với sự tập trung cao dường như thu hút phần lớn "khả năng của đầu óc" tôi.
Bệnh nhân cũng có lợi do được đi vào trạng thái thư giãn sâu ở thời điểm này và việc trò chuyện sẽ kéo họ ra khỏi trạng thái đó. Tôi liên tiếp được các hướng đạo dạy cho những bài học mới. Tôi vừa học được một mức, họ đã đưa tôi lên mức tiếp sau. Đôi lúc một nhóm mới các thầy chữa tâm linh đi vào thao tác qua tôi.

8. Chữa trị tại các mức vũ trụ của hào quang (các vầng thứ tám và thứ chín của hào quang)
Hiện giờ tôi đã bắt đầu nhìn thấy hai mức của trường hào quang bên trên mẫu óng vàng. Hai mức này hiện ra có bản chất kết tinh và có rung động cao rất mịn. Mọi thứ từ mức thứ bảy trở xuống, về một ý nghĩa nào đó, đều là phương tiện truyền bá để hướng dẫn và hỗ trợ ta qua cuộc đời này. Điều đó bao gồm cả các dải tiền kếp trong vầng ketheric, bởi vì những dải này đại diện cho những bài học về nghiệp (căn) mà ta đã hóa thân để học hỏi trong cuộc đời này.
Tuy nhiên, các vầng thứ tám và thứ chín ở mức vũ trụ nằm ở phía bên kia cái đó. Các vầng này có quan hệ với con người thực của ta ở phía bên kia cuộc đời này. Chúng ta là những linh hồn đầu thai đời nọ tiếp đời kia, dần dần phát triển trên con đường tiến hóa đi tới Thượng Đế.
Bảy vầng bên duới của trường năng lượng chứa đựng mọi trải nghiệm ta đã có trong cuộc đời này cũng như mọi sơ đồ cho những trải nghiệm có thể có mà ta lập chương trình khi vạch kế hoạch cho cuộc đời này. Ta cũng thường xuyên ság tạo ra các trải nghiệm mới. Do chỗ ta có tự do ý chí cho nên không phải là ta luôn chọn lựa để có tất cả các trải nghiệm đó. Những người khác cũng tự do ý chí, dến nỗi mà khả năng xảy ra trải nghiệm là một vấn đề rất phức tạp. Nói cách khác, so với các trải nghiệm ta hiện có, thì số trải nghiệm có thể xảy ra nhiều hơn hẳn. Toàn bộ số trải nghiệm có thể xảy ra hoặc số thực tại có thể có này đều chất đống trong trường năng lượng. Tất cả chúng đều được trù liệu để dạy cho linh hồn ta một số bài học mà ta đã lựa chọn để học hỏi.
Đôi khi những trải nghiệm có thể xảy ra đó không còn thích hợp cho sự phát triển của linh hồn và cần được tháo gỡ khỏi hào quang. Việc tháo gỡ này được tiến hành từ mức thứ tám của hào quang. Cứ như thể thầy chữa chiếu bản thân mình vượt ra khỏi kích thước của cuộc đời này, rồi với xuống bảy vầng bên duới và chỉ đơn giản tháo gỡ các trải nghiệm có thể xảy ra đó, bằng cái mà tôi mệnh danh là Tấm chắn mức thứ tám.
A. Tấm chắn mức thứ thám
Tấm chắn mức thứ tám được sử dụng để tháo gỡ chấn thương từ cuộc đời này, chấn thương làm tắc nghẽn nghiêm trọng sự phát triển của con người hoặc chỉ đơn giản là không còn cần thiết nữa. Nghĩa là chấn thương đó không còn phục vụ mục đích dạy cho linh hồn một bài học nào đó mà cá thể đã dự định học hỏi.
Chính ý thức cao cấp của bệnh nhân sẽ quyết định khi nào thì tấm chắn mức thứ tám là thích hợp, chứ không phải mức nhân cách. Phần lớn thời gian bệnh nhân sẽ không mảy may nhận thức điều đó nhưng đôi khi những ai đã nghe nói về tác động mạnh mẽ của tấm chắn mức thứ tám thường đòi hỏi nó. Đòi hỏi này thường không có kết quả. Tấm chắn chỉ được các hướng đạo đưa cho thầy chữa vào lúc thích hợp. Việc nhấc một chấn thương lâu ngày ra khỏi trường năng lượng của người nào đó có thể gây sốc nặng. Đôi khi cần có tấm chắn để bảo vệ cá thể do chỗ được trải nghiệm một niềm tự do lớn hơn khi một chấn thương lâu ngày được lấy đi. Về căn bản, quá trình này bao gồm việc thầy chữa đặt tấm chắn vào trong hào quang bệnh nhân, lôi cuốn hay thực sự dỗ dành một chấn thương cũ ra đi, bơm đầy ánh sáng hồng của yêu thương vô điều kiện vào khoảng trống do chấn thương để lại và cô lập nó. Sau đó bệnh nhân có thời gia lành và quen dần với việc được cất bỏ cái gánh nặng mà họ mang theo đi khắp nơi trong nhiều năm (không dễ dàng như bạn có thể nghĩ đâu - tự do làm người ta sợ). Cuối cùng tấm chắn biến đi khi người đó phát triển trải nghiệm tích cực thay vào chỗ đó.
Tiến trình đặt tấm chắn hết sức phức tạp và thường diễn ra sau khi làm sạch toàn bộ và sau khi tiến hành một số thao tác mẫu. Việc này không bao giờ do thầy chữa quyết định mà là do các hướng đạo gợi ý. Tấm chắn hiện ra như một "mảnh" ánh sáng dẹt màu xanh có đặc tính chống thấm cao và rất bền. Tấm chắn khớp với rìa duới của luân xa ngay bên trên chấn thương và ăn sâu vào trong rễ luân xa. Tay trái mở ra một lối để đặt tấm chắn. Để làm việc này, trường năng lượng của nó thấm sâu vào thân thể tới rễ luân xa, trong khi tay phải từ từ đưa nó vào đúng chỗ. Động tác này được các hướng đạo giám sát. Tấm chắn nhô ra khỏi rìa dưới của luân xa và lan rộng xuống khắp vùng bị chấn thương, hơi có góc cạnh với thân thể. Đầu dưới của nó để ngỏ để dành lối ra cho chấn thương.
Tay trái níu chặt lấy tấm chắn và không được di chuyển trong suốt quá trình đặt tấm chắn cũng như quá trình đi ra của chấn thương, bởi vì tay trái ngăn cách phần giải phẫu bên trên của trường hào quang với cái đang được thao tác lên và dùng làm lối vào để các hướng đạo giữ phần đó của trường tách biệt khỏi vùng mà chấn thương khu trú. Cùng lúc ấy, các hướng đạo riêng của bệnh nhân thường đưa bệnh nhân xuất thần ra khỏi thân để bảo vệ và dạy bảo họ.
Một khi tấm chắn được đặt xong, thầy chữa dùng tay phải của mình với xuống dưới tấm chắn và bắt đầu liên lạc với ý thức năng lượng của chấn thưong để dỗ dành nó rời khỏi nơi đó bằng cách làm cho nó nhớ lại liên kết của nó với Thượng Đế. Phương pháp chữa trị này, tiến hành từ một mức cao như vậy, rất khác với phương thức tháo gỡ tắc nghẽn của trường năng lượng từ những mức bên dưới. Bằng cách trực tiếp liên kết với ý thức năng lượng của chấn thương đã sẵn sàng ra đi mà thầy chữa, bằng cách đặt tấm chắn, cung cấp một phương thức cho chấn thương ra đi. Chấn thương ra đi với sự thuận tình của chính nó. Dùng sức ép dù nhiều dù ít cũng đều phá vỡ quá trình ấy và buộc thầy chữa phải bắt đầu lại mọi việc. Phương pháp này để cho toàn bộ chấn thương ra đi. Trong chữa trị từ các vầng bên dưới của hào quang, nhiều khi các tắc nghẽn trong trường năng lượng là những dấu ấn của chấn thương hơn là toàn bộ năng lượng của bản thân chấn thương. Về một nghĩa nào đó trong mức cao của chữa trị, chấn thương được đối xử như thể nó có hiện hữu riêng, vì nó là một phần nguyên của ý thức năng lượng. Khi chấn thương ra đi, tất cả những tác động của chấn thương đó cũng ra đi theo nó và bệnh nhân hết phải đối phó với nó. Tấm chắn cho phép sự hợp nhất êm thấm của biến đổi vào đời sống bệnh nhân và ngăn ngừa mọi rối loạn trong đời sống của họ, rối loạn mà chắc sẽ xảy ra nếu họ không được đặt tấm chắn. Khi chấn thương ra đi, các hướng đạo âu yếm cầm lấy nó và bơm đầy ánh sáng cho nó. Khi toàn bộ chấn thương đã ra đi, khu vực đó được "đốt" bằng ánh sáng trắng hoặc óng vàng và khoảng trống được bơm đầy ánh sáng hồng của yêu thương vô điều kiện. Trường năng lượng mới màu hồng sau đó được tái liên kết với trường bao quanh nó, mọi thứ của nó vẫn khu trú dưới tấm chắn. Khu vực lối ra bỏ ngỏ ở nền tấm chắn bấy giờ được bọc bằng một dấu niêm óng vàng lưu tại chỗ. Rồi thầy chữa cắt đứt liên kết giữa tay trái của mình với tấm chắn được giữ lại bên trong. Thầy chữa từ từ xuyên sâu năng lượng tay phải của mình vào vị trí của năng lượng tay trái. Việc này giải phóng cho tay trái bấy giờ sẽ được sử dụng để hợp nhất vùng mới được tái cấu trúc và được đặt tấm chắn với phần còn lại của trường hào quang bệnh nhân. Thầy chữa từ từ di chuyển tay trái đi qua phần trên của cơ thể hào quang mà tái liên kết các trường năng lượng.
Sau khi đặt tấm chắn, thầy chữa tăng lực cho dòng năng lượng thẳng đứng chủ yếu của hào quang bằng cách cho chạy ánh sáng óng vàng rung động qua nó. Bệnh nhân từ từ nhập lại vào thân. Có thể việc này là tất cả những gì được tiến hành trong chữa trị. Có thể thầy chữa đi xuống để chữa trị lớp thứ sáu nhằm tăng cường sự thanh thản cho bệnh nhân hoặc có thể chỉ đơn giản kết thúc việc chữa trị với mức thứ bảy.
Điều thử thách lớn nhất đối với tôi trong loại thao tác này là học cách chỉ đơn giản ngồi đó và dỗ dành chấn thương để nó ra đi. Điều này khác xa việc xúc hoặc lôi hay gõ long nó ra bằng các rung động cao. Thật khó khăn mới lên được bên trên vầng thứ bảy và ở lại đó trong một trạng thái yên bình hoàn toàn và liên kết với Ý chí Thượng Đế. Phải điều khiển việc thở sao cho hít vào thở ra chậm, sâu và giữ tâm trí tập trung vào việc quy phục Ý chí siêu phàm. Thầy chữa phải ngồi bên trong tia sáng siêu phàm đó. Nói cách khác, tôi phải ngồi với chấn thương, tiếp cận với năng lượng ý chí đó trong hi tôi ở trong trạng thái liên kết với Ý chí Thượng đế và chỉ nhắc nhở từng tế bào của chấn thương đó và từng tế bào của thân thể rằng nó mang theo mình một tia sáng của Thượng Đế. Tôi nhắc nhở nó rằng nó là Thượng đế, ánh sáng và tri thức và vì vậy nó tuôn chảy một cách không khoan nhượng cùng ý chí vũ trụ và làm thành một với ý chí vũ trụ. Đó không phải là việc dễ làm. Dạo mới bắt đầu, tôi thường có khuynh hướng khởi sự bằng cách lôi ra. Nếu tôi làm như vậy, điều đó có nghĩa là ý chí của tôi đã đi vào vùng ở gần, tức là tôi đã rơi vào một mức thấp. Điều đó sẽ đánh bật chính các hướng đạo ra khỏi người tôi và sẽ làm cho tôi rùng mình toàn thân. Hoặc là họ rời bỏ người tôi, coi như một tín hiệu hoặc là họ không chịu đựng nổi rung động "ý chí" mức thấp của tôi. Lúc bấy giờ chúng tôi phải làm lại mọi thứ từ đầu.
Tấm chắn mức thứ tám cần thiết khi bệnh nhân không chịu đựng nỗi tình trạng tự do của một chấn thương suốt đời được nhấc lên trong một buổi chữa trị, cứ như thể họ phải bơm đầy khoảng trống đó bằng một trải nghiệm tiêu cực khác. Một hôm tôi đã sửng sốt khi chứng kiến một chuyện như thế.
Sau khi hoàn thành chữa trị, khi bệnh nhân đang đi giày thì toàn bộ trường năng lượng óng vàng đã tái cấu trúc này bỗng rơi vào tình trạng lệch lạc trước mắt tôi. Tôi ngạc nhiên nghĩ bụng: "Bằng cách nào mà bạn làm việc đó nhanh thế?". Tôi muốn đặt lại anh ta lên bàn ngay, nhưng nhận ra rằng làm như vậy không đúng, rằng có cái gì hơn thế đã dính líu vào đây. Về sau Emmanuel, một thầy dạy tâm linh được dẫn kênh qua bạn tôi là Pat (Rodegast) De Vitalis nói rằng lúc bấy giờ bệnh nhân biết anh ta thực sự không thể chấp nhận cái anh ta nói là mình muốn, rằng anh ta không sẵn sàng đương đầu với một số khía cạnh của đời mình có liên quan đến việc chữa trị. Điều đó có nghĩa là đối chiếu bản thân với những hậu quả gây cho anh nhiều đau đớn, anh đã không muốn làm.
Chẳng bao lâu sau trải nghiệm này tôi đã học cách đặt tấm chắn. Tôi cũng nhận ra rằng tôi không thể đề xuất việc chữa trị tiếp cho bệnh nhân này bởi vì việc đó sẽ đem bản thân anh ta ra đối chiếu với quyết định tiêu cực của anh và có thể làm cho mọi việc xấu thêm. Tôi chỉ có thể chờ cho anh tới đúng vị trí trong bản thân, nơi anh đã quyết định đương đầu với những hậu quả ở xa bên ngoài trong đời mình. Sau đó có thể là anh ta quyết định tới chữa trị và chúng tôi có thể đặt tấm chắn vào cho anh, đến mức anh có thể được bảo vệ do chỗ được nhấc gánh nặng đi trong khi bên trong anh liền sẹo. Sau đó tấm chắn sẽ biến đi và dần dần anh ta sẽ có đủ khả năng trải nghiệm niềm tự do được tăng thêm.
Một ví dụ lý thú về chữa trị bằng cách đặt tấm chắn được trình bày ở Hình 22-21. Bệnh nhân mà tôi sẽ gọi là Betty là một nhà kinh doanh nữ. Chị  là một bệnh nhân tới điều trị tây y. Mẹ chị mất năm chị mới lên ba. Vào thời gian chị bắt đầu tới điều trị tây y chỗ tôi cách đó một vài năm, chị không hình dung được mẹ đẻ của mình như thế nào và không thể nhớ lại được là đã từng nhìn thấy một bức tranh về bà. Suốt quá trình điều trị, chị đã có được những bức tranh về mẹ mình và bắt đầu tái liên kết cũng như quan hệ với bà. Điều này giúp chị phát triển thêm lòng tự trọng bởi vì  mẹ đẻ của chị giờ đây đã trở thành một thực tại đối với chị. Trước đây chị không khi nào có thể chấp nhận mẹ kế. Quá trình nói trên cũng giúp chị cải thiện quan hệ với mẹ kế của mình. Chị đau nhiều ở ngực khi nghĩ đến việc mất mẹ ruột.
Sau vài ba năm chữa tây y, một hôm chị hỏi tôi tại sao tôi chưa lần nào chữa trị cho chị. Tôi nói sở dĩ như vậy là vì chị rất khỏe mạnh. Nhưng đúng vào lúc đó các hướng đạo nhắc nhở tôi sử dụng "tấm chắn mới mà tôi vừa học được cách đặt vào". Buổi sau đó là một buổi chữa trị. Sau khi đi qua việc thanh nạp bình thường và thủ tục tinh khiết hóa, kiểm tra mức mầu của chị, chỗ này không cần phải thao tác gì, các hướng đạo tiến hành đặt tấm chắn và tháo gỡ chấn thương về việc mất mẹ lúc còn bé. Tôi hết sức xúc động khi nhìn thấy mẹ chị hiện ra dưới hình thái linh hồn, được các hướng đạo riêng của bà khích lệ. Thay vì một nhóm hướng đạo nhận và chiếu sáng chất năng lượng - ý thức của chấn thương, tôi nhìn thấy mẹ chị nhận nó với thái độ yêu thương (xem hình 22-21), Trong khi đó, các hướng đạo của bệnh nhân đã kéo chị xuất thần ra khỏi thân để bảo vệ và dạy bảo chị. Trong bước tiếp theo của quá trình đặt tấm chắn, các hướng đạo "bơm đầy khoảng trống của chấn thương bằng ánh sáng hồng của yêu thương. Sau đó tiếp tục chữa trị bằng cách dùng ánh sáng óng vàng đóng kín đáy của tấm chắn, như được trình bày ở Hình 22-22. Rồi chúng tôi tái liên kết khu vực tấm chắn với nửa trên và nửa dưới của trường hào quang. Sau đó chúng tôi tăng cường dòng năng lượng thẳng đứng chủ yếu trong thân thể. Vào lúc hoàn tất việc này thì chấn thương mà bà mẹ đang cầm trong tay chuyển thành ánh sáng trắng.
B. Chữa trị ở mức thứ chín của hào quang
Tôi biết rất ít về thủ tục này. Khi tôi theo dõi các hướng đạo thao tác từ mức này, nó hiện ra với tôi như thể họ chỉ đơn giản tháo gỡ toàn bộ một bên các cơ thể năng lượng của một người (cùng với tất cả các trường) và đặt vào đấy một bộ mới. Tất cả cái này hiện ra trước mắt tôi như là ánh sáng kết tinh. Thủ tục này, khi được tiến hành, có hiệu quả chữa trị bệnh nhân rất nhanh. Theo ước đoán của tôi thi nó phải thực hiện bằng sự tái hóa thân vào vùng thân thể mà không cần phải trải qua các trải nghiệm sinh đẻ/tuổi thơ để sắp đặt các nhiệm vụ cuộc đời. Tôi đã được chứng kiến điều này một vài lần
Các nhóm hướng đạo
Đôi khi tôi thấy hiện ra những nhóm hướng đạo khác nhau thao tác trên các mức khác nhau và vào lúc khác dường như có cùng các hướng đạo ấy tại những mức khác nhau. Các nhóm hướng đạo thao tác tại những mức khác nhau dường như có những đặc tính khác nhau.

Các hướng đạo thao tác ở mức tinh tú có liên quan chủ yếu với những vấn đề của tim và yêu thương. Họ hay khuyên giải, yêu thương rất mực, chăm sóc tận tình và ăn nói đầy thi vị, họ dạy chúng tôi học hỏi để yêu thương lẫn nhau cho dù khi chúng tôi có thiếu sót v.v... Theo tôi, các hướng đạo ketheric và etheric mẫu có vẻ rất nghiêm túc, cực kỳ hoạt bát và "cứ muốn làm việc nữa". Họ có liên quan với mẫu hoàn chỉnh và thường chữa trị có hiệu quả. Họ không hiện ra có nhiều cảm nghĩ nhưng đồng thời lại rất giỏi chịu đựng và chấp nhận. Họ hướng dẫn giỏi hơn. Các hướng đạo đặt tấm chắn mức thứ tám cho ta cảm giác là có tinh thần chấp nhận khoáng đạt và lòng kiên nhẫn vô hạn kèm theo yêu thương. Các hướng đạo mức thứ chín thì tôi rất khó nhận ra nhưng dường như họ hơi phi nhân tín (impersonal - ND).
KHUÔN KHỔ BUỔI CHỮA TRỊ
Coi như để giúp các thầy chữa mới, tôi sẽ một lần nữa, liệt kê ngắn gọn khuôn khổ buổi chữa trị. Sau đây là bảng phân tích một buổi chữa trị, nó sẽ giúp cho bạn phân tích là bạn cần thực hành ở đâu và bạn cần tiến hành thao tác phát triển cá nhân của riêng mình ở đâu.
1. Trước khi có người vào, bạn hãy liên kết bản thân với ánh sáng, khai mở các luân xa của mình bằng cách sử dụng các phương pháp đã dạy trong phần "Dẫn kênh để chữa trị" của cuốn sách này.
2. Hãy lắng nghe vì sao họ đến chỗ bạn. Vì sao họ được đặt biệt hướng dẫn đến chỗ bạn? Phải đưa cho họ cái gì? Hãy khai mở kho kiến thức bên trong của bạn.
3. Hãy giải thích điều bạn làm.
4. Hãy phân tích dòng chảy năng lượng trong hệ thống của họ. Những tắc nghẽn chính là gì? Họ sử dụng năng lượng của họ như thế nào? Họ hướng trệch nó như thế nào? Hậu quả của việc họ hướng trệch lâu ngày là gì? Phòng vệ chủ yếu của họ là gì? (Xem các chương 9, 10 và 12).
5. Đo các luân xa bằng con lắc. Ghi chép (xem chương 10).
6. Hãy hài hòa và liên kết bản thân với ánh sáng; hãy đưa ra một khẳng định; liên kết và cân bằng trường năng lượng của bạn với trường của họ. Hãy nhận thức về các hướng đạo của mình, nếu bạn chưa làm điều đó. Thường kỳ qua suốt buổi chữa, bạn phải tái liên kết và cân bằng hệ thống năng lượng của bạn với ánh sáng, các hướng đạo của bạn và hệ thống của họ.
7. Hãy thuyết minh các kết quả đọc luân xa trong khi cho chạy năng lượng qua các điểm phản chiếu đám rối thái dương ở bàn chân: Hãy phát hiện sự cân bằng lý trí, ý chí và xúc cảm; trung tâm hoặc những trung tâm chủ yếu bị bít; trung tâm hoặc những trung tâm khai mở qua đó họ có thể hoạt động để đối phó với các vấn đề và để khai mở các luân xa bị bít. Hãy tìm ra những lối thoát chủ yếu. Hãy đọc, về phương diện tâm linh, bất cứ thông tin nào mà bạn bắt được. Nguyên nhân khởi đầu của bệnh tật là gì? Những đặc tính của bản ngã cao cấp mà bạn cần lưu ý họ nhằm giúp họ tự chữa trị? (Xem các chương 9, 10 và 12).
8. Hãy thanh nạp luân xa của các cơ thể hào quang bên dưới trong khi chụp quét các hệ thống của thân thể. Nếu là người mới nhập môn, bạn hãy nhảy sang bước 16. Sau khi thực hành thêm, hãy thêm bước 9 nếu cần, các buớc 10 và 11. Sau khi bạn cảm nhận được các vầng thứ năm, thứ sáu và thứ bảy của trường hào quang, bạn có thể thực hiện các bước 12, 13, 14 và 15.
9. Làm sạch cột sống.
10. Thao tác trực tiếp lên những nơi bạn đã nêu ra. Hãy chọn trong các phương pháp khác nhau mà bạn biết. Trong khi làm như vậy, hãy quan sát trạng thái cảm xúc của họ. Họ có dẫn năng lượng hoặc tắc nghẽn vào bằng xúc cảm không? Hãy ngồi lại với họ. Cùng họ đi vào các tắc nghẽn. Hãy để cho các hướng đạo của bạn giúp bạn trong những khu vực bệnh hoạn đặc biệt. Hãy lắng nghe.
11. Làm sạch những tắc nghẽn đặc biệt trong các cơ thể năng lượng bên dưới.
12. Nếu bạn biết cách làm thì đây là lúc diễn ra các thao tác etheric hoặc ketheric mẫu.
13. Hãy đi tới mức thượng giới (thứ sáu) hãy trực tiếp gửi ánh sáng trắng vào trong vùng não trung tâm. Nâng cao các rung động của bạn bằng cách rung động tuyến yên của bạn. Khi rung động của họ đạt tới các rung động của bạn thì hãy đi lên mức tiếp theo và lặp lại. Làm như vậy cho đến khi vùng não trung tâm sáng lên.
14. Tại điểm này, nếu bạn chưa làm như vậy thì bạn có thể nhìn thấy các hướng đạo của họ, các thiên sứ, các cảnh hiện hình hoặc đưa các thông điệp trực tiếp cho họ. Hãy nhẹ nhàng ngừng liên kết và kết thúc việc khai mở.
15. Trong tư thế ở phía đầu bàn, bạn hãy thử tạo ra một dòng rung động lên xuống nhẹ nhàng xuất phát từ não thất ba qua cột sống bằng cách sử dụng bàn tay kép.
16. Tại điểm này, có thể bạn muốn chải bên ngoài cơ thể thượng giới và cơ thể tinh tú (đặc biệt nếu họ bị suy nhược hoặc bị kìm nén).
17. Nâng cao và tăng lực cho vỏ trứng hoặc quả cầu hào quang.
18. Hãy di chuyển sang bên phải bệnh nhân tái tiếp cận vầng thứ bảy; hãy tưởng thưởng bệnh nhân của bạn, tưởng thưởng khả năng tự chữa trị của họ.
19. Hãy nhẹ nhàng ngừng liên kết, kết thúc các khai mở và chuyển dịch ra xa bệnh nhân. Hãy dành cho bản thân bạn vài ba phút để hoàn toàn nhập lại vào thân và vào trong bình diện trái đất. Hãy để cho năng lượng chữa trị tuôn chảy qua bạn. Hãy tưởng thưởng bản thân; khẳng định con người thực của bạn và công việc của bạn.
20. Nếu bệnh nhân đã xuất thần và cần giúp họ nhập lại thân thì bạn hãy nhẹ nhàng kéo họ về bằng cách cọ lên chân họ hay hút năng lượng về phía bạn.
21. Sau mỗi buổi chữa, hãy nhắc nhở bệnh nhân uống một cốc to đầy tràn nước mát và bạn cũng thế
PHÂN TÍCH BUỔI CHỮA TRỊ 
1. Cái gì đã xảy ra theo thứ tự thời gian? Từng bước chữa trị đã tiến triển như thế nào? Bước nào dễ? Bạn gặp rắc rối với bước nào?
2. Hãy trả lời mục 4 của Khuôn Khổ buổi chữa trị.
3. Hãy trả lời mục 7 của Khuôn Khổ buổi chữa trị.
4. Các quá trình bên trong của thầy chữa và bệnh nhân là gì? Bạn có quên tập trung và có thể là phí phạm năng lượng vào nơi không cần thiết không? Sự thể như thế nào? Hãy liên hệ điều này với các cấu trúc đặc tính của thầy chữa và của bệnh nhân.
5. Việc nào được hoàn thành trong chữa trị? Bạn có vươn tới được ánh sáng bên trong của bệnh nhân không? Bản chất những đặc tính của bản ngã cao cấp của bệnh nhân là gì? Bạn đã hỗ trợ và đưa bệnh nhân xuất thần như thế nào?
6. Dựa vào cơ sở điều trên đây, bạn cần tiến hành thao tác cá nhân nào?
7. Hãy vẽ ra một bức tranh về dòng chảy năng lượng trước và sau chữa trị.
8. Nguyên nhân khởi đầu của bệnh tật là gì? Bạn xử lý nó ra sao?
9. Dựa vào cơ sở điều trên đây, bạn sẽ tập trung vào thao tác chữa trị nào trong thời gian tới? Tiên lượng của bạn? Hướng dẫn của bạn về tiên lượng này?
Điểm lại Chương 22
1. Việc đầu tiên thầy chữa làm trước khi bắt đầu chữa trị là gì?
2. Cho chạy năng lượng có nghĩa như thế nào? Bằng cách thanh nạp cơ thể?
3. Thanh nạp tiến hành như thế nào?
4. Khi cho chạy năng lượng để thanh nạp, thầy chữa có điều khiển một cách hữu thức màu sắc của ánh sáng không? Tại sao hoặc tại sao không?
5. Nếu luân xa 1 của thầy chữa bị bít ở các mức bên dưới của trường năng lượng thì thầy chữa có sử dụng được màu đỏ một cách hữu hiệu trong chữa trị không? Tại sao hoặc tại sao không?
6. Cho một bệnh nhân tim, hãy mô tả phương hướng thanh nạp. Tại sao lại làm theo cách đó?
7. Hãy mô tả quá trình làm sạch cột sống.
8. Điểm khác nhau giữa cho chạy năng lượng bằng một tay, hai tay riêng rẽ hay hai tay cạnh nhau?
9. Cho chữa trị mức thứ năm, điều gì xảy ra nếu bạn không theo hướng dẫn và chuyển dịch tay mình trước khi các hướng đạo làm xong công việc.
10. Hãy nói lên ba cách mà một người có thể làm rách vầng thứ bảy (Tham khảo thêm Chương 15).
11. Nếu có chỗ rách trong hào quang trên toàn bộ trường thì cần phải khâu lại những vầng nào?
12. Chỗ rò năng lượng có hết không, nếu như bạn không thể vươn tới và khâu vầng thứ bảy khi nó bị rách?
13. Thanh nạp có sửa chữa được trường hào quang bị rách không?
14. Tại sao bệnh nhân lại xuất thần khi thao tác vầng thứ bảy?
15. Trong chữa trị bằng ánh sáng trắng, người ta tập trung năng lượng và ý thức của mình như thế nào? Bạn tập trung chú ý vào đâu? Bạn chụp quét như thế nào?
16. Hãy mô tả việc chữa trị ở từng mức của trường hào quang.
17. Tấm chắn mức thứ tám là gì? Nó dùng để làm gì? Ai là người quyết định phải dùng nó?
18. Hãy mô tả thủ tục kết thúc một buổi chữa trị nó để cho bạn, về phương diện tâm lý, tác xa ra khỏi bệnh nhân cho đến khi bạn muốn tái tiếp cận?
19. Điểm khác nhau giữa dẫn kênh để chữa trị và dẫn kênh để nhận thông tin?
Để làm động não 
20. Ai tiến hành chữa trị?
Chương 23

 CHỮA TRỊ BẰNG MÀU SẮC VÀ ÂM THANH 
Chữa trị bằng ánh sáng màu, điều biến màu
Sẽ có nhiều khi thầy chữa cần giữ lại một màu nào đó được dẫnm kênh cho mình. Giữ lại màu cũng có nghĩa là giữ cho trường năng lượng của bạn nằm trong một dãy tần số nào đó, một việc mà bạn thực sự phải tiến hành trong suốt quá trình chữa trị. Bạn cần phải đủ nhạy cảm để giữ mức năng lượng của bạn ở dãy cần thiết tại bất cứ thời điểm nào được bệnh nhân đề ra. Một số ví dụ của việc giữ một màu nào đó đã được trình bày ở các chương trước nói về chữa trị etheric mẫu, ketheric mẫu (giữ màu óng vàng), chữa trị mức thứ sáu trong đó bạn đi lên để đi vào các tần số thượng giới, làm sạch cột sống và nạp luân xa trong đó bạn giữ lại màu đặc biệt của luân xa cho đến khi nó được nạp năng lượng. Vào những thời điểm khác, có thể bạn được các hướng đạo đề nghị rót một ánh sáng có màu nào đó vào cho bệnh nhân bất kể lúc nào và chỗ nào cần thiết. Vào những lúc này, bạn phải học cách hiện diện bên trong một màu đặc biệt và giữ vững nó.
Trong chương trước tôi đã nói rằng việc học cách sản sinh ra một màu do mình chọn để dùng chữa trị đòi hỏi phải thực hành nhiều. Với các sinh viên mới, điều rất quan trọng là thực hành điều biến màu trước khi cố gắng điều khiển màu đang đi vào thân thể mình. Tiến hành thanh nạp tối đa mà không điều khiển màu. Tuy nhiên, về sau trong chữa trị, có thể các hướng đạo muốn bạn "ngồi vào bên trong" hoặc giữ vững một màu nào đó mà họ muốn sử dụng. Điều này có nghĩa là nếu bạn không học điều khiển màu sắc thì có thể bạn sẽ gây nhiễu cho màu đang được gửi qua bạn bằng cách thay đổi trường năng lượng của mình một cách vô thức. Như vậy là bạn cần phải có khả năng giữ vững trường năng lượng của mình trong một màu riêng.
Dolores Krieger trong cuốn sách của bà nhan đề Tiếp xúc liệu pháp đưa ra một số bài tập điều biến màu. Nhất thiết bạn phải học hỏi cái tựa như là "hiện diện bên trong"một màu nào đó. Đây không phải là vấn đề nghĩ màu như trong mường tượng. Nếu bạn nghĩ đỏ, bạn sẽ tạo ra vàng. Nếu bạn nghĩ lục, bạn sẽ tạo ra vàng. Nếu bạn nghĩ xanh, bạn sẽ tạo ra vàng. Các thầy chữa gọi đó là "làm cái đó bên trong màu vàng", bởi vì khi bạn nghĩ thì bạn tạo ra màu vàng. Nhiều người mới nhập môn làm cái đó bên trong màu vàng. Như vậy, để tạo ra màu xanh, bạn phải "hiện diện" bên trong màu xanh, dù cho việc ấy có ý nghĩa như thế nào đối với bạn. Do đó bạn cần phải thực nghiệm cho bản thân cái tựa như là hiện diện bên trong một treạng thái của màu xanh.
Các bài tập điều khiển màu sắc bạn gửi đi
Bạn cảm thấy thế nào khi mặc áo quần màu xanh hoặc ngồi trong ánh sáng màu xanh từ một khung cửa sổ nhà thờ? Màu xanh có ý nghĩa gì đối với bạn?
Một lần nữa, bạn lại phải dùng đến giác quan mà bạn quen sử dụng hơn cả. Bạn có tiếp cận được thông tin một cách dễ dàng bằng nhìn thấy, nghe thấy hoặc cảm thấy không? Màu xanh, âm thanh hay cảm giác giống cái gì? Hãy lấy một trong những tinh thể thủy tinh có pha chì mà bạn có thể treo ở cửa sổ. Hãy đặt các ngón tay lên từng màu cầu vồng mà nó tạo ra. Mỗi màu cho ta cảm giác như thế nào? Hãy lấy mấy cái dĩa thủy tinh màu hay tấm plastic màu sáng sủa và để chúng ra ánh nắng. Bạn hãy khảo sát tỉ mỉ mối liên hệ của bạn với từng màu. Hãy lấy các mảnh giấy hay nguyên liệu có màu cùng cỡ.
Xếp lẫn chúng thành một đống. Nhắm mắt lại và nhặt ra hai mảnh trong số đó. Hai mắt vẫn nhắm, hãy khảo sát tỉ mỉ mối liên hệ của bạn với màu ấy. Nó cho bạn cảm giác như thế nào? Bạn có thích màu ấy không? Hay không thích? Nó có gây nên cảm giác nào đó ở bạn không? Nó tiếp sinh lực hay làm mất sinh lực của bạn? Nó làm cho bạn cảm thấy bình tĩnh hay bực bội? Hãy đặt nó vào các phần khác nhau của thân thể bạn. Bạn có thích mặc màu ấy không? Sau đó, mắt vẫn nhắm, bạn hãy quyết định là bạn thích nhất màu nào. Nếu bạn muốn, bạn có thể đoán màu đó là màu gì, rồi mở mắt ra, bạn sẽ ngạc nhiên là bây giờ có biết bao thông tin về mối liên hệ của bạn với từng màu. Bạn sẽ thấy rằng bạn mang định kiến về việc mỗi màu được "giả định" hoạt động nhưng lại không hoạt động.
Hãy tìm một người bạn, cầm hai tay họ và hai người thay phiên chạy năng lượng cho nhau trong một màu nào đó. Hãy nhìn xem bạn mình nói được là màu gì. Thực hành, thực hành, thực hành. Nhớ rằng để cho chạy màu đỏ, bạn phải có luân xa 1 của mình thông suốt. Để chạy màu vàng cam, phải có luân xa 2 thông suốt v.v... Bạn phải thanh lọc các luân xa của mình trước khi tiến hành những bài tập này. Các bài tập để thanh lọc luân xa được nêu trong chương 21.
Ý nghĩa của màu trong hào quang
Nhiều người đến với tôi và hỏi: "Hào quang tôi màu gì?". Và sau đó lại hỏi:"Màu đó có ý nghĩa ra sao?" Nhiều người xin "đọc hào quang" trong đó người đọc sẽ bảo hào quang của họ có màu này màu nọ và có ý nghĩa thế này thế kia. Như bạn có thể thấy trong cuốn sách này, tôi thường không làm như vậy. Nếu có ai hỏi hào quang họ màu gì thì tôi thường nói: "Ở vàng nào?" hoặc sẽ chỉ đơn giản đọc những màu trội tại các mức không được cấu trúc và bảo điều gì đó như "Chủ yếu là xanh với một ít vàng và tía". 

Đồng nghiệp của tôi, Pat (Rodegast) de Vitalis, người dẫn kênh cho một hướng đạo tên là Emmanuel, đọc các màu ở mức "linh hồn" Emmanuel chỉ đơn giản chỉ chi chị ấy "hào quang" của người ở mức linh hồn vì nó liên kết với nhiệm vụ trong cả cuộc đời này. Những màu ấy có ý nghĩa đặc biệt đối với Pat và là cách chị giải thích điều chị nhìn thấy. Danh mục ý nghĩa các màu sắc của chị được nêu ở Hình 23-1. Nhớ rằng để sử dụng danh mục này nhằm giải thích điều bạn nhìn thấy, bạn phải nhìn vào cùng một mức mà Pat đang hiện hữu trong đó.
Để đọc các màu ở mức linh hồn, hãy thanh lọc tâm trí của bạn qua thiền định sâu và sau đó yêu cầu được cung cấp các màu của mức linh hồn. Sau một số lần thực hành, những màu này sẽ hiện ra trên màn hình tâm trí của bạn. Có thể bạn cũng thấy các hình thái hoặc hình ảnh mang những màu này mà bạn mô tả được cho các bệnh nhân của mình nhằm giúp họ hiểu ý nghĩa của các màu đó. Nếu bạn thấy màu đỏ, điều đó có nghĩa là sự tức giận hay các cảm nghĩ mạnh mẽ. Khi trộn với màu hồng, điều đó có nghĩa là yêu thương. Màu đỏ rực có nghĩa là cơn giận được kìm nén, da cam ngả đỏ bao hàm đam mê tình dục. Khi có màu vàng cam, người đó đang nuôi tham vọng. Màu vàng có liên quan đến khả năng hiểu biết.
Người có nhiều màu lục thì có nhiều năng lượng chữa trị và giáo dục. Xanh là màu của nhà giáo và của tính nhạy cảm. Khi ở mức linh hồn có màu tía thì người đó có liên kết sâu sắc với thần linh, trong khi màu chàm có nghĩa đang chuyển dịch tới một liên kết sâu sắc với thần linh. Màu tím nhạt có liên quan đến thần linh và màu trắng có liên quan đến chân lý.
Màu óng vàng là liên kết với Thượng Đế và với việc phục vụ nhân loại bằng tình yêu thương như thần thánh. Khi một người có màu ánh bạc trong mức linh hồn, điều đó có nghĩa là họ liên kết với những năng khiếu truyền đạt hoặc có khả năng truyền đạt tốt. Màu nhung đen tựa như những lỗ trống trong không gian là những ô cửa dẫn tới các thực khác. Màu nâu thẫm có nghĩa là đang đi vào nhiệm vụ của mình. Màu đen là thiếu ánh sáng hay là quên lãng hoàn toàn, nó sẽ dẫn đến ung thư và hiện ra ở mức linh hồn như là một hoài bão bị ngăn trở.

Màu sắc trong một buổi chữa trị
Tất cả các màu của cầu vồng đều được sử dụng trong chữa trị. Mỗi màu có tác động riêng trong từng hào quang. Tất nhiên mỗi màu có thể được dùng để nạp cho luân xa nào chuyển hóa màu đó.

Màu đỏ dụng cho trường, đốt cháy ung thư và suởi ấm các vùng giá lạnh. Màu vàng cam nạp cho trường, tăng cường sức mạnh tình dục và miễn dịch. Màu vàng dùng để thanh lọc đầu óc tăm tối và giúp cho trí tuệ tuyến tính hoạt động tốt. Màu lục được sử dụng với tác động làm cân bằng chung và chữa trị mọi thứ. Màu xanh làm mát và làm dịu ; nó cũng được dùng để tái cấu trúc trường etheric và trong việc đặt tấn chắn. Màu tía giúp cho bệnh nhân liên kết với thần linh của mình, trong khi màu chàm khai mở con mắt thứ ba và tăng cường mường tượng cũng như thanh lọc đầu óc. Màu trắng được dùng để nạp cho trường, mang lại yên bìn và an ủi cũng như lấy bỏ ưu phiền. Màu óng vàng đủ để tái cấu trúc vầng thứ bảy, tăng lực và nạp trường hào quang. Màu nhung đen đưa bệnh nhân vào trạng thái khoan hòa, tĩnh lặng và yên bình cùng với Thượng đế; nó có tác dụng tốt trong việc tái cấu trúc xương bị vỡ vụn do ung thư hoặc do chấn thương. Màu xanh ngả tía lấy bỏ ưu phiền khi thao tác sâu vào các mô và thao tác vào các tế bào xương; nó cũng giúp mở rộng trường năng lượng của bệnh nhân nhằm liên kết với nhiệm vụ của họ.
Nói chung, tôi không điều khiển màu sắc đi vào qua người tôi khi tiến hành chữa trị, nhưng tôi có khả năng chịu đựng màu sắc đi vào qua người tôi. Trong vài dịp hiếm hoi, tôi chủ tâm gửi đi một màu nào đó. Bảng 23-2 cho thấy các màu được dùng trong chữa trị và được các hướng đạo sử dụng vào mục đích gì, theo như tôi đã nhìn thấy. Việc nạp từng luân xa  được tiến hành bằng cách cho chạy màu của luân xa đó vào trong trường năng lượng tại bất cứ mức nào mà bạn đang thao tác. Nhìn chung trong xã hội này, do chỗ chúng ta đã khá tâm thần, thường hay dùng phép phân tích và hiểu biết rộng, cho nên màu vàng hông được dùng làm cho vi sinh vật rung động với tốc độ cao và rõ ràng là đánh cho chúng long ra. Nếu ánh sáng này không thanh toán được rất cả vi snh vật thì các hướng đạo sẽ tăng cường độ và tần số rồi đi lên màu ánh bạc. Luồng ánh sáng mạnh mẽ này dường như phá vỡ mối liên kết của vi sinh vật với không gian của chúng. Sau đó, các hướng đạo đảo ngược hướng đi của dòng chảy năng lượng qua người tôi và hút trở ra tất cả màu tím nhạt lẫn màu ánh bạc, dùng ánh sáng giữ lấy các vi sinh vật. Cách làm này phần nào giống như tạo chân không bằng ánh sáng. Trong một trường hợp đặc biệt tôi làm sạch máu cho một bệnh nhân nữ bị bệnh bạch cầu, chị ta nhận được kết quả thử máu đầu tiên vào ngày hôm sau cho thấy máu đã "sạch". Đó là trường hợp duy nhất mà tôi có được kết quả lâm sàng để kiểm tra cách làm này.
Tại một thời điểm tôi bắt đầu thử nghiệm tác động của ánh sáng xanh ngả tía cùng với một đồng nghiệp. Chúng tôi tổ chức các buổi trao đổi (Santa Barbara, California), thao tác sâu vào các mô của tôi và dự các buổi lên lớp của tôi. Khi anh thao tác trên người tôi, chúng tôi thử nghiệm phối hợp việc điều khiển màu với thao tác sâu vào các mô. Khi anh có khả năng duy trì một ngọn lửa màu xanh ngả tía phát ra từ các đầu ngón tay anh thì anh có thể đi rất sâu vào các mô cơ của tôi mà không gây đau. Nếu anh đãng trí và "buông rơi" màu thì cơ của tôi bị đau. Việc điều khiển màu sắc đi qua làm cho thao tác của anh hữu hiệu hơn vì anh có thể đi sâu hơn và tạo được một thay đổi rõ rệt hơn của cơ và của sắp xếp cấu trúc. Tại một thời điểm của thao tác này, anh có thể đi tới mức của xương. Bằng cách duy trì một ngọn lửa màu xanh ngả tía phối hợp với ánh sáng trắng, anh có thể nắn thẳng một khúc cong nhẹ trên xương đùi của tôi. Khi tôi dùng tri giác cao cấp để theo dõi tiến trình này, tôi có thể nhìn thấy các tế bào của xương đùi mình tự sắp xếp lại với nhau. Cảm giác thể chất cực kỳ dễ chịu. Heyoan dẫn giải rằng khúc cong của xương có liên quan đến cách thức mà tác động áp điện bên trong xương giúp cho sự phát triển trực tiếp của xương. Tác động áp điện bên trong xương như sau: Khi trên mô xương có áp lực, chẳng hạn do đi lại, thì áp lực gây ra một dòng điện nhỏ chạy qua xương. Xương này sẽ phát triển nhanh hơn theo hướng của dòng điện đó. Nếu như áp lực (do đi lại) được đặt lên xương theo một kiểu không ngay ngắn  thì nó sẽ làm cho xương phát triển không ngay ngắn hoặc cong. Khúc cong trên xương đùi của tôi là do tai nạn xe cộ. Thao tác của Dnaiel đã loại bỏ vĩnh viễn chỗ cong nhẹ này.
Tại một thời điểm nào đó trong sự nghiệp chữa trị của tôi, các hướng đạo gợi ý cho tôi bắt đầu sử dụng ánh sáng màu đen. Điều này có vẻ khác thường đối với tôi, bởi vì các màu tối trong hào quang thường kếp hợp với bệnh tật. Tuy nhiên, màu đen này không phải là màu đen của ung thư mà là màu nhung đen, tựa như lụa có màu đen của nhung. Nó tựa như tiềm năng cuộc sống được duy trì trong dạ con vậy. Nó là điều bí ẩn màu đen của người phụ nữ không quen biết bên trong tất cả chúng ta, tràn đầy một sinh khí không khác biệt. Ngồi trong khoảng trống màu nhung đen là một phương thức khác để làm thành một với tạo hóa, nhưng thời gian này không có hình thái. Ngồi trong khoảng trống màu nhung đen có nghĩa là ngồi trong tĩnh lặng và yên bình. Có nghĩa là hiện hữu trọn vẹn tại đó, trong sung túc và không có bất hạnh. Có nghĩa là đi vào trạng thái khoan hòa và đưa bệnh nhân của bạn đi vào trạng thái khoan hòa đó cùng với bạn. Có nghĩa là chấp nhận hoàn toàn mọi thứ hiện hữu vào lúc đó. Heyoan cùng các hướng đạo chữa trị khác và tôi thường hay ngồi vào vị trí này với những bệnh nhân bị ung thư hoặc các bệnh khác rất nặng, mỗi lần như thế trong cả tiếng đồng hồ. Việc này có tác dụng chữa trị rất lớn. Nó đưa bệnh nhân vào trạng thái làm thành một với Đấng siêu phàm.

Sử dụng âm thanh để chữa trị
Tôi thấy rằng màu sắc trong hào quang liên quan trực tiếp với âm thanh.
Phát ra các độ cao âm thanh đặc thù vào trường hào quang không những tạo nên các màu đặc thù trong đó mà nó còn là một tác nhân chữa trị rất mạnh.
Bệnh xơ cứng rải rác (M.S) là bệnh được các thầy chữa coi như một trong những bệnh khó thao tác nhất. Thật khó mà tác động để có được thay đổi trong hào quang của người mắc bệnh này. Trong một lớp huấn luyện chữa trị tích cực do tôi tiến hành, có một sinh viên tên là Liz bị bệnh xơ cứng rải rác. Nhiều lần trong cả tuần huấn luyện, các sinh viên và tôi thao tác trên cô ta. Vài sinh viên thấy được một vết sẹo trong trường năng lượng của Liz tại vùng xương cùng. Trong lần chữa trị theo nhóm đầu tiên của chúng tôi, Liz được thanh nạp bình thường và trải qua nhiều cảm giác. Nhóm này chữa cho liz, giữ chặt cô và cùng khóc lóc với cô. Tuy vậy, khi giờ chữa trị thứ hai kết thúc, tôi và một sinh viên nữa, cô này đã học cách sử dụng tri giác cao cấp, thấy rằng vết sẹo vẫn không suy suyển. Trong khi tuần chữa trị, tiến triển, từng sinh viên bắt đầu phát huy kiểu chữa trị đặc biệt mà Liz cảm thấy có liên quan nhiều nhất. Một số thích các tinh thể, số khác tập trung vào yêu thương, một số tập trung vào phẫu thuật tâm linh và một số nữa tập trung vào sử dụng âm thanh. Đến cuối tuần chúng tôi lại thao tác trên người Liz. Từng sinh viên sử dụng thao tác tốt nhất đã được họ chọn lọc. Có một số sinh viên dùng âm thanh, hai sinh viên thao tác bằng tinh thể, một số ngồi trong yêu thương và một số cho chạy năng lượng. Chúng tôi thao tác theo nhóm một cách nhịp nhàng. Chúng tôi phát hiện ra rằng hai người trong số chúng tôi thao tác bằng tinh thể đều có khả năng nâng vết sẹo ra khỏi trường năng lượng nếu chúng tôi thao tác bằng máy dò. Âm thanh do máy dò tạo ra làm cho long sẹo. Chúng tôi sử dụng các tinh thể như những dao mổ để cắt bỏ sẹo một khi nó đã bị âm thanh làm long. Sau đó chúng tôi điều khiển máy dò để thay đổi chút ít độ cao âm thanh và một phần khác của sẹo long ra. Sau khi lấy bỏ nó thì lại cho thay đổi độ cao âm thanh làm long thêm sẹo. Chúng tôi tiến hành theo cách thức này cho đến khi lấy bỏ được hoàn toàn vết sẹo.
Sau chữa trị, Liz nói rằng không còn thấy đau chân như suốt 15 năm qua. Cô đi lại tốt hơn và duy trì được tới khoảng bốn năm sau, vào thời gian tôi viết cuốn sách này. Đây chỉ là một phần nhỏ trong chuyện tự chữa trị của Liz. Cô đã thành công trong việc lấy lại được toàn bộ khả năng sử dụng thân thể mình trước đó bị liệt gần toàn bộ.
Từ dạo đó tôi đều đặn sử dụng âm thanh trong các buổi chữa. Tôi dùng âm thanh trực tiếp lên các luân xa để nạp năng lượng và tăng lực cho chúng.
Tôi để miệng tôi cách mặt da khoảng 1 in vào đúng vị trí của luân xa. Mỗi luân xa có một độ cao âm thanh khác nhau và độ cao âm thanh của mỗi người cho một luân xa riêng biệt cũng hơi khác.
Để tìm ra độ cao âm thanh cho từng luân xa, tôi thay đổi dãy đôi chút cho đến khi gặp được cộng hưởng. Bệnh nhân có thể nghe được và cảm nhận được cộng hưởng này. Vì tôi cũng thấy được trường năng lượng nên tôi để ý xem luân xa đáp ứng âm thanh. Khi tôi gặp được độ cao âm thanh thích hợp thì luân xa căng ra và bắt đầu xoay nhanh, đều. Màu luân xa sáng chói lên. Sau khi duy trì âm thanh một lúc, luân xa được nạp và tăng lực đủ để giữ một mức năng lượng mới. Xong tôi chuyển dịch lên luân xa kế cận. Tôi bắt đầu với luân xa 1 và đi lên qua cả bảy luân xa.
Hiệu quả thú vị của chữa trị bằng âm thanh, thường được bệnh nhân cảm nhận rất rõ rệt, là nâng cao khả năng mường tượng của bệnh nhân. Nếu một người có luân xa bị nạp thiếu thì thường hay mất khả năng mường tượng màu sắc trên đầu mình. Tuy nhiên, sau vài ba phút được chữa trị bằng âm thanh trên luân xa tương ứng, bệnh nhân này có thể mường tượng màu sắc của luân xa.
Bất cứ lúc nào mà tôi biểu diễn chữa trị bằng âm thanh trong nhóm thì thành viên nào trong nhóm cũng có thể nói cho biết lúc nào tôi gặp được cộng hưởng với luân xa.
Những nguyên lý tương tự được sử dụng trong chữa trị bằng âm thanh cho các luân xa cũng có tác động với các cơ quan và xương. Tôi phát âm thanh vào một cơ quan riêng biệt bằng cách giữ miệng mình xa mặt da khoảng 1 in bên trên bề mặt thân thể nơi cơ quan đó khu trú. Tôi dùng tri giác cao cấp theo dõi cơ quan này cho đến khi có được âm thanh thích hợp có hiệu quả tối đa lên nó. Hiệu quả có thể là tác động lên dòng chảy năng lượng, làm sạch cơ quan hay tăng lực cho nó. Tôi chỉ đơn giản theo dõi và đi tìm đáp ứng của nó. Qua vài ba tháng chữa đều đặn, tôi đã có thể trị bệnh viêm loét đại tràng bằng phương thức này. Bệnh nhân tránh được một cuộc mổ mở thông đại tràng theo như chỉ định của một số bác sĩ. Bệnh nhân tiến hành chữa trị một phần bằng cách nghe băng ghi âm đó mỗi ngày một vài lần.
Kiểu chữa trị bằng âm thanh này cũng tác động rất tốt đối với các tổn thương dĩa đêm tăng cường sự phát triển của các mô, thanh lọc các chất dịch ứ trệ ra khỏi thân thể, điều chỉnh hệ thần kinh, điều chỉnh các cơ quan đến mức chúng tăng được sức đề kháng hoặc hài hòa với nhau để làm việc tốt hơn.
Tôi nhận thấy rằng tất cả các loại cơ quan mô, xương và chất dịch đều đòi hỏi một âm độ và một điều biến khác nhau để tăng cường hoạt động lành mạnh của chúng. Cùng với việc chữa trị bằng âm thanh dưới dạng các âm độ đơn thuần, người ta cần phải sử dụng các loại âm thanh khác nhau. Các bài giảng cổ truyền Ấn Độ đưa ra một chữ tiếng Phạn và một âm thanh riêng cho mỗi luân xa. Tôi chưa thao tác bằng những cái đó nhưng tôi có thể hình dung ra chúng là những hình thái chữa trị rất mạnh mẽ.
Một vài nhóm nhạc như nhóm của Robbie Gass, biểu diễn âm nhạc nhằm mục đích khai mở các luân xa. Trong một buổi hòa nhạc mà tôi có mặt, Robbie điều khiển đội hợp xướng của mình hát suốt hai giờ liền không nghỉ. Trong cả thời gian đó, các bài hát được chọn lọc đặc biệt để khai mở các luân xa theo thứ tự tăng dần, bắt đầu bằng luân xa 1. Vào lúc kết thúc, phần lớn luân xa của số đông cử tọa được khai mở và nạp năng lượng. Ai cũng trải qua một khoảng thời gian kỳ diệu. Âm nhạc chữa trị rất hữu hiệu.
Điểm lại Chương 23
1. Hãy thống kê những ví dụ về thời điểm mà thầy chữa thường kiểm tra một cách có ý thức màu sắc của ánh sáng được dẫn kênh và hãy giải thích tại sao.
2. Về việc dẫn kênh một màu được chọn thì điều gì là khó khăn?
3. "Làm cái đó bên trong màu vàng" có ý nghĩa gì?
4. Nhìn chung trong chữa trị, các màu sau đây có tác dụng gì: Đỏ, vàng cam ngả đỏ, óng vàng, lục, hồng, xanh, tía và trắng?
5. Sử dụng chủ yếu của các màu tím nhạt và ánh bạc?
6. Ánh sáng màu đen được sử dụng như thế nào?
7. Tác dụng của màu xanh ngả tía khi được sử dụng làm massage sâu vào các mô?
8. Bạn điều biến (tạo ra) một màu để dẫn kênh như thế nào? Hãy nêu một vài phương thức.
9. Có mối quan hệ giữa màu sắc và âm thanh trong chữa trị không? Nó là cái gì?
10. Chữa trị bằng âm thanh tác động vào trường hào quang theo nguyên tắc vật lý nào?
11. Âm thanh cho từng luân xa có thể được sử dụng như thế nào? Tác động của nó lên luân xa là gì?
12. Âm thanh cho một cơ quan có thể được sử dụng như thế nào và tác động của chữa trị bằng âm thanh là gì?
13. Bạn tìm ra âm thích hợp để chữa trị bằng cách nào? Hãy nêu lên hai phương cách mà nhờ đó bạn có thể bảo rằng đây là âm thích hợp?
14. Bạn có thể thụ động dẫn kênh một âm thanh do hướng đạo của mình tạo ra không? Nó khác biệt như thế nào với việc chữa trị bằng âm thanh mà chúng ta nói trên đây?
Chương 24
Nguyên tác: Hands of Light -
A Guide to Healing Through the Human Energy Field
CHỮA TRỊ CÁC CHẤN THƯƠNG XUYÊN THỜI GIAN
Tại một điểm nào đó trên con đường tâm linh, nhiều người bắt đầu có những trải nghiệm xuyên thời gian được coi như là các trải nghiệm tiền kiếp. Có thể một vài người thiền định và "nhớ lại" rằng họ là một người khác trong một kỷ nguyên khác. Một vài người khác, khi tiến hành thao tác điều trị sâu các chấn thương tái trải nghiệm từ cuộc đời hiện tại, có thể đột nhiên thấy rằng họ sống lại một chấn thương mà họ đã trải nghiệm trong "một cuộc đời khác".
Trải nghiệm xuyên thời gian có lẽ không được hoàn toàn xác định do giác quan hạn chế của chúng ta về thời gian và không gian. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng thuật ngữ tiền kiếp là một phương thức rất hạn chế để xác định một trải nghiệm như vậy. Như đã thấy trong Chương 4, cả các nhà vật lý lẫn các nhà thần bí đều đồng ý rằng thời gian là không tuyến tính và không gian không phải chỉ có ba chiều. Nhiều nhà văn đã nói về những thực tại đa chiều và đa thời gian cùng tồn tại bên trong nhau. Einstein nói đến một continuum thời gian- không gian mà tại đấy mọi việc của quá khứ và vị lai hiện đang tồn tại, xen kẽ lẫn nhau như thế nào đó trong một thực tại đa chiều. Itzahak Bentov nói rằng thời gian tuyến tính chỉ là sản phẩm của thực tại chiều thứ ba (mà tôi đang cố gắng ấn cuốn sách này vào trong đó).
Bài tập trải nghiệm thời gian không tuyến tính
Trong tác phẩm Lần Theo Con Lắc Hoang Dã của mình, I. Bentov đưa ra một bài tập thể dục để minh họa điều này: Hãy ngồi thanh thản trong thiền định với một cái đồng hồ, ở vào một phạm vi nhìn thấy được rõ ràng đến mức mà toàn bộ công việc bạn phải làm là khẽ hé hai mắt để nhìn thấy cái kim thứ hai trong khi nó quay tròn theo từng phút một. Khi bạn đã đạt tới một trạng thái vô thức cao trong thiền định, bạn chỉ có việc hé mắt ra nhìn vào cái kim thứ hai của đồng hồ. Cái gì đã xảy ra? Nhiều người có trải nghiệm là cái kim này hoặc ngừng hoàn toàn, hoặc chạy chậm kinh khủng. Dĩ nhiên, bạn vừa mới nhìn thấy điều đó thì phản ứng cảm xúc của bạn chắc hẳn sẽ kéo bạn trở về thực tại thuận tiện thường lệ của thời gian tuyến tính và cái kim thứ hai sẽ nhảy cẫng lên và lấy lại tốc độ vận động thường lệ của nó. Cái gì đã xảy ra ở đây? Bentov nói rằng thời gian được trải nghiệm chủ quan, một cách không tuyến tính, rằng chúng ta tạo ra một cấu trúc thời gian tuyến tính coi như là đúng để được thuận tiện.
Cả Edgar Cayce lẫn Jane Roberts đều nói về một thực tại đa chiều trong đó toàn bộ quá khứ và tương lai của ta đều đang sống trong hiện tại, mỗi thứ nằm trong một chiều riêng của nó và nói rằng mỗi một nhân cách trong từng chiều là một phần biểu hiện của một linh hồn lớn hay một sinh thể lớn. Theo Roberts, ta có thể thâm nhập vào các chiều khác hay các "cuộc đời" khác này nhằm mang lại tri thức và am tường để cải biến. Bằng việc làm đó, chiều này hay các cuộc đời hiện tại của ta có thể cải biến được những cuộc đời khác của ta hoặc những chiều khác của ta. Hay, nói nôm na hơn, cung cách ta sống hiện nay trong cái mà ta gọi là cuộc đời này đều tác động lên cả các tiền kiếp lẫn những cuộc đời vị lai của ta. Tất cả những chuyện này thật khó mà hiểu nỗi, nhưng chúng dùng để giúp chỉ ra và thử thách những hạn chế trong nếp nghĩ của ta về bản chất của thực tại.
Ở các mức liệu pháp và chữa trị (therapcutic and healing levels - ND) tôi đã từng thấy việc thao tác lên các tiền kiếp rất có hiệu quả khi được vận dụng theo một cách thức trong đó quá trình cải biến được duy trì như một mục tiêu chủ yếu. Nó không phải là vật gì đó để đùa bỡn hoặc dùng quảng cáo cho cái tôi. Tất cả chúng ta sẽ thích nghĩ về bản thân mình như đã từng là một bà hoàng hậu vĩ đại hay một nhà lãnh đạo cỡ nào đó hơn là nghĩ rằng kiếp trước mình là nông dân, kẻ ăn xin hoặc tên giết người v.v.. Nhất thiết đó không phải là điểm cốt yếu. Lợi ích của việc tái trải nghiệm các tiền kiếp rõ ràng là để giải phóng nhân cách ra khỏi những vấn đề hiện đang giữ ta lại không cho ta đạt tới những tiềm năng to lớn và không cho ta hoàn tất công việc cuộc đời (hay nhiệm vụ cuộc đời) của ta. Những vấn đề có liên quan đến các trải nghiệm tiền kiếp luôn có liên quan đến cái mà nhân cách đang giải quyết trong cuộc đời hiện tại, khi ký ức về tiền kiếp được moi ra một cách tự nhiên, không gò ép. Điều này là một sự kiện rất quan trọng có thể được ghi vào tâm trí của thầy chữa hoặc của thầy thuốc mà công việc họ phải làm là đảm bảo tạo ra được mối liên kết giữa các cuộc đời. Sau đó, ký ức về tiền kiếp có thể được ghép vào những hoàn cảnh của cuộc đời này để giúp chữa khỏi những vấn đề của cuộc đời này.
Một số thầy thuốc nội khoa thường đột nhiên nhìn thấy tiền kiếp của bệnh nhân khi tiếp xúc với thân thể họ, chẳng hạn ở liệu pháp kiểu nuôi nấng (mothering type therapy - ND) trong đó thầy thuốc bế bệnh nhân theo cách mẹ bế con. Sau đó thầy thuốc có thể sử dụng thông tin này bằng cách phát sóng nó vào trong buổi chữa trị theo lối cảm nhận.
"Nhìn thấy" và chữa trị chấn thương tiền kiếp"
Tôi có ba cách chính để "nhìn thấy" và chữa trị chấn thương tiền kiếp, mỗi cách có liên quan đến một mức hoặc các mức của hào quang mà việc chữa trị tiến hành tại đó. Tất cả các mức từ mức ketheric trở xuống đều chịu tác động của chấn thương tiền kiếp. Ở bốn mức đầu tiên của hào quang, một chấn thương tiền kiếp trông như một tắc nghẽn năng lượng thông thượng của trường. Tại các mức etheric và ketheric mẫu, nó lộ ra như một vấn đề về cấu trúc và thêm vào đó, ở mức ketheric tiền kiếp lộ ra như một cái quầng hay một dải trong mức vỏ trứng của trường.
Để "nhìn thấy" một tiền kiếp, đúng là tôi có thể "được cung cấp" cảnh tượng tiền kiếp thích hợp với hoàn cảnh chữa trị hiện tại hay bệnh tật trong khi bệnh nhân nói với tôi. Hoặc tôi có thể giữ hai tay trên một tắc nghẽn đặc biệt và sẽ nhìn thấy tiền kiếp. Để dọc các tiền kiếp có liên quan đến các dải trong mức vỏ trứng, tôi chỉ đơn giản đặt hai tay vào trong dải và nhìn thấy các bức tranh của tiền kiếp.
Bây giờ tôi sẽ mô tả ba phương pháp chữa trị đó một cách chi tiết hơn.
Chữa trị các tắc nghẽn tiền kiếp trong bốn mức bên dưới của hào quang
Một phương pháp thanh lọc các tắc nghẽn tiền kiếp mà tôi học được từ Petey Peterson tại Trung tâm chữa trị bằng ánh sáng, Glendale - California, có kết quả rất tốt trong việc lấy bỏ chấn thương tiền kiếp đang làm nghẹt tự do của con người trong cuộc đời hiện tại.
Loại thao tác đó thực sự nhằm trước tiên vào những tắc nghẽn từ trong cuộc đời này. Thầy chữa tập trung năng lượng vào tắc nghẽn ấy. Điều này bắt đầu làm cho năng lượng chuyển dịch ra khỏi tắc nghẽn và chấn thương thường được giải tỏa. 

Các vầng hào quang đầu tiên thường mang những tắc nghẽn xảy ra trong cuộc đời hiện tại; sau khi được thanh lọc, những chấn thương từ các cuộc đời khác bộc lộ ra và được thao tác theo cách nói trên. Thầy chữa phải có nhiều kinh nghiệm và đủ khả năng để xử lý những cảm giác rất mạnh về đau đớn, sợ hãi hay tức giận trong người bệnh nhằm thực hiện thao tác này. Thầy chữa phải hiện hữu tại đó với bệnh nhân để chịu đựng mọi loại cảm giác trải nghiệm xảy ra. Thầy chữa không được thu năng lượng của mình lại nếu bị tác động bởi những cảm giác mạnh mẽ ấy, mà phải tiếp tục hiện hữu tại đó, cho chạy đều đặn một năng lượng hỗ trợ căn bản giữ vững được bệnh nhân qua trải nghiệm này đến mức họ có thể hoàn tất và thanh lọc nó.
Để làm việc này, mọi người bắt đầu chữa trị theo lối thông thường bằng liên kết (Chương 22) và cân bằng ba hệ thống năng lượng của bệnh nhân, thầy chữa và các hướng đạo trường năng lượng vũ trụ. Về sau, trong quá trình thanh nạp, thầy chữa sẽ nhận biết được các tắc nghẽn trong hệ thống. Thầy chữa được dẫn dắt qua trực giác hoặc hướng dẫn tới tắc nghẽn thích hợp cho việc tập trung lên trong buổi chữa đặc biệt đó. Bấy giờ thầy chữa áp hai tay lên khu vực đó của thân thể và cho chạy năng lượng vào. Bàn tay trái của thầy chữa đặt rất lâu ở phía sau và bàn tay phải ở phía trước.
Sau khi có đầy đủ năng lượng tuôn chảy vào, thầy chữa sẽ yêu cầu bệnh nhân để cho ký ức khai mở và trở về thời gian mà lần đầu tiên họ đặt tắc nghẽn vào khu vực đó. Thầy chữa tiếp tục cho chạy năng lượng vào trong tắc nghẽn trong khi bệnh nhân đi ngược lại thời gian. Thầy chữa thường có được những bức tranh về sự kiện đang theo dõi khi bệnh nhân cố gắng nhớ lại. Bệnh nhân cũng sẽ thấy các bức tranh hoặc đi vào trạng thái cảm nhận (hoặc cả hai) nó tường thuật lại trải nghiệm. Sau đó có thể bệnh nhân tái trải nghiệm chấn thương đó một cách đầy đủ như thể họ đang sống lại nó một lần nữa, hay có thể bệnh nhân chỉ nhìn thấy trải nghiệm như một quan sát viên. Thầy chữa sẽ kể lại hoặc không kể lại điều mình nhìn thấy, tùy theo việc làm đó thích hợp hay không. Không phải trường hợp nào kể lại cũng thích hợp, đặc biệt nếu bệnh nhân không nhìn thấy nó. Thầy chữa luôn phải giúp bệnh nhân trải nghiệm thêm chấn thương đó. Thầy chữa vừa tăng cường độ vừa tăng tần số của năng lượng mà mình cho chạy vào tắc nghẽn. Việc này được lặp lại cho đến khi cả khu vực trở nên sáng sủa và bệnh nhân đã sẵn sàng cho chấn thương ra đi để khu vực đó được bơm đầy bằng ánh sáng hồng của yêu thương vô điều kiện.
Nếu khu vực không sáng sủa ra thì thường là có một chấn thương khác nằm bên dưới chấn thương đầu tiên đã trải nghiệm. Tôi đã nhìn thấy có tới năm chấn thương từ các tiền kiếp khác nhau được xếp thành từng lớp chồng lên nhau tại cùng một khu vực của thân thể. Năm lớp này còn sót lại sau khi bệnh nhân đã thanh lọc các lớp chấn thương từ cuộc đời này. Nói cách khác, các chấn thương do con người trải nghiệm đều nằm lại trong trường hào quang, lớp nọ trên lớp kia, hẳn là theo trình tự thời gian. Khi bạn thanh lọc một chấn thương thì chấn thương kế cận bị lộ ra để được xử lý và thanh lọc.
Nhiều lần khi bệnh nhân tái trải nghiệm tiền kiếp có một hiệu ứng trường rất mạnh đã được Đức Rosalyn Bruyere mệnh danh là chuyển đi trường diện một chiều. Đức Bruyere nói rằng trong chuyển di này toàn bộ trường hào quang mở rộng tới một kích thước lớn hơn nhiều so với bình thường nhưng vẫn duy trì tốc độ rung động cao của nó. Gần gấp đôi năng lượng tồn tại trong trường khoảng 48 giờ và bệnh nhân rất dễ bị tổn thương cũng như xú cảm. Nhiều hồi ức vô thức được khai mở suốt thời gian này, do đó các hồi ức tiếp tục tuôn chảy vào trong vô thức của cá thể. Điều rất quan trọng đối với người này là phải ở trong một môi trường yên tĩnh, an toàn và nhiêu dinh dưỡng để cho việc chữa trị tiếp tục và hoàn tất. Các trải nghiệm không vui từ những nguồn gốc bên ngoài suốt thời gian này sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến cá thể và cần tránh. Đã đến lúc trường phải tái lập các mẫu dòng chảy khỏe mạnh mà nếu được để ổn định qua 48 giờ sẽ trở nên một phần dòng chảy bình thường của hệ thống, do đó làm cho việc chữa trị trở thành thường xuyên. Điều quan trọng đối với thầy chữa là giải thích cho bệnh nhân rõ điều đang diễn ra và nhấn mạnh tầm quan trọng của thời kỳ chữa trị cũng như khuyến khích họ chăm lo cho bản thân suốt cả thời gian này. Phải coi trọng sức lực trong thời gian này. Thời kỳ này tương tự như khi con người đi vào trạng thái sốc.
Trong khi bệnh nhân ngược dòng thời gian, thanh lọc hết chấn thương này đến chấn thương khác, thường bằng cách bắt đầu từ cuộc đời này rồi đi tới những cuộc đời đã qua, thì khu vực tắc nghẽn trở nên mỗi lúc một trong trẻo. Dùng ánh sáng hồng của yêu thương vô điều kiện bơm đầy từng lớp trước khi đi vào lớp kế cận cần thanh lọc. Như vậy người ta có thể nhìn thấy bất cứ quá trình tinh khiết hóa tự nhiên nào thanh lọc được các tắc nghẽn (và phần lớn các con đường tâm linh đã thực hiện) cuối cùng sẽ dẫn dến việx thanh lọc tiền kiếp. Điều rất quan trọng là việc thanh lọc tiền kiếp phải được thực hiện ở điểm thích hợp trên bước đường của con người. Có thể đạt tới điểm đó khi đã diễn ra nhiều cuộc đời riêng của con người được trật tự và khi họ không bị cám dỗ để sử dụng các  trải nghiệm tiền kiếp nhằm tránh né những vấn đề cần xử lý đây đó trong cuộc đời này.
Tại điểm thích hợp, việc thanh lọc tiền kiếp có thể giải thoát một số vị trí trong cuộc đời con người dường như không thể thay đổi được, thậm chí qua nhiều thao tác tâm linh đã được tiến hành để thanh lọc chúng. Sau đó việc thanh lọc tiền kiếp đôi khi có thể mở đầu cho những đổi thay đột biến trong cuộc đời hiện tại của con người.
Chẳng hạn, một bệnh nhân sống giữa cuộc hôn phối rất tiêu cực bị chồng gây thương tích nhưng không đủ sức từ bỏ hôn nhân cho đến khi chị ta tái trải nghiệm khoảng 15 tiền kiếp trong đó chị đã bị nhiều đàn ông lạm dụng thân xác bằng cách này hay cách khác. Chị nhìn thấy sự tiếp diễn của mô hình về sự lệ thuộc của mình trong đó, chị cứ nghĩ là đàn ông có mọi quyền lực (và cũng có mọi trách nhiệm).


Chị thấy mình đã sống hoàn cảnh chứng minh rằng đàn ông có nhiều quyền lực hơn chị ở mức thể chất. Khi chị đã thấy mô hình của mình và biết rằng cần phải đối đầu với tính lệ thuộc của mình, phải sống tự lập và đương đầu với nỗi lo sợ phải sống cô đơn, thì bấy giờ chị sẵn sàng từ bỏ hôn nhân và làm lại cuộc đời. Cuộc đời chị đã thay đổi một cách đột biến trong năm đó, năm xảy ra sự kiện nói trên, chị sống tự do, hạnh phúc và khỏe mạnh. Chị đã cho ra đi nỗi sợ hãi phải sống cô đơn và qua việc này chị đang lấy lại tính tự lập cũng như trách nhiệm đối với cuộc đời của mình.
Chữa trị các chấn thương tiền kiếp ở các mức etheric và ketheric mẫu của hào quang?
Để chữa trị một vấn đề cấu trúc trong hào quang do tiền kiếp gây ra, bạn cũng làm theo quy trình như khi chữa trị bất kỳ vấn đề cấu trúc nào ở mức mẫu, như mô tả ở Chương 22. Điểm khác biệt quan trọng ở đây là ngay khi thầy chữa biết được chấn thương từ một tiền kiếp, thầy chữa đã phải giúp cho bệnh nhân liên kết các vấn đề của cuộc đời hiện tại với trải nghiệm tiền kiếp. Những vấn đề cấu trúc tại mức này của hào quang, từ các tiền kiếp thường dẫn đến những vấn đề bẩm sinh trên thân thể. Những vấn đề này rất quan trọng cần xử lý vì chúng được giữ rất chặt và rất sâu trong thực chất linh hồn của cá thể. Rõ ràng cái phần nhiệm vụ chủ yếu này của cá thể là xử lý vấn đề đó cùng với những vấn đề liên quan đến sinh đẻ, ở cả mức thể chất lẫn mức tâm lý động lực. Công việc này sau đó sẽ dẫn đến vấn đề tâm linh mà linh hồn hóa thân để giải quyết trước nhất. Điều quan trọng đối với thầy chữa là nhớ phạm vi nhiệm vụ đang thực hiện. Mục tiêu không chỉ là chữa trị thân thể, mặc dù đây thường là điều trước nhất khiến bệnh nhân đến với thầy chữa. Mục tiêu là chữa trị linh hồn. Ở mức mẫu, đó là tăng lực cho trường hào quang và liên kết nó với dòng chảy tự nhiên của nó - dòng chảy vũ trụ của mọi cuộc đời.
Trong trường hợp một chàng trai tên là John, thoạt tiên tôi nhìn thấy các vấn đề cấu trúc trong hào quang. Tôi cũng "nhìn thấy" một bức tranh về cảnh tượng tiền kiếp có liên quan đến vết thương hào quang. Các hình 24.4 đến 24-5 là những hình vẽ của thao tác chữa trị sau đó.
Chàng trai này không nói cho tôi, trước thời hạn, là vấn đề gì. Hình 24-4 cho thấy trường của anh ở mức ketheric mẫu trông như thế nào khi anh đến với tôi. Hãy so sánh nó với hình 7-13 trong chương 7 là hình chỉ rõ hình ảnh của trường bình thường ở mức ketheric mẫu. Thay vì những sợi óng vàng đẹp mắt tạo thành những cánh hoa xoay tròn của các luân xa tại đám rối thái dương, John có một cấu tạo trông như vệt đen mặt trời. Một khối to năng lượng màu đỏ, vàng và đen tạo thành những xoáy nhỏ phần lớn có màu xám tóe ra. Phần lớn các luân xa còn lại không việc gì (và không được trình bày ở đây). Dòng năng lượng óng vàng thẳng đứng chủ yếu chạy lên chạy xuống dọc cột sống bị lệch nhiều sang phải, hướng tới khu vực vệt đen mặt trời và có màu rất tối trong khu vực đó. Các xoáy nhỏ phụ màu xám cũng tạo nên phần sau của hào quang. Khi John nói về cuộc đời mình, tôi bỗng nhiên nhìn thấy anh trong tiền kiếp đã có thời kỳ ở khoảng chừng kỷ nguyên Genghis Khan (Thành Cát Tư Hãn 1160 ? - 1227 của Mông Cổ Xưa - ND). Cảnh tượng là một trận đánh, tại đó John đang sử dụng vũ khí cầm tay, khoái trá sát hại một người lính "đối phương" John dùng một cái gậy có dây xích, cuối xích gắn một quả cầu lởm chởm nhiều gai nhọn, để quật vào đầu kẻ địch. Cùng lúc đó, kẻ địch thọc một mũi giáo vào đám rối thái dương của John. Cả hai đều bị giết. Trải nghiệm này đã để lại trong anh một niềm tin cho rằng biểu hiện mạnh mẽ của năng lượng tinh lực dẫn đến vết thương và chết chóc.
Trong cuộc đời này, John có khuynh hướng kìm nén mọi biểu hiện hợp nhất mạnh mẽ của tinh lực từ bên trong anh ta. Thay vào đó, anh phân chia sức lực của mình thành những phần nhỏ để biểu hiện.

Nghề nghiệp của anh - điều khiển các trò chơi - được sử dụng như một công cụ giúp hợp nhất các phần của bản thân anh. Bằng cách biểu hiện các mặt khác nhau của tinh lực mạnh mẽ trong các đặc điểm khác nhau của những trò chơi khác nhau, anh đã có thể trải nghiệm những kết quả tạo ra bởi sự biểu hiện riêng. Như vậy, các trò chơi đưa lại cho anh nhiều trải nghiệm tựa như cuộc đời thu nhỏ giúp cho anh học cách biểu hiện sức mạnh.
Khi anh bước vào chỗ tôi, tôi không biết là John bị vẹo cột sống cho đến lúc anh xoay người lại và tôi có thể nhìn thấy điều đó bằng mắt thường. Anh sinh ra đã có tật này rồi và chưa hề được phẫu thuật để kéo thẳng cột sống. Do vậy, tôi lý giải rằng tật bẩm sinh này là hậu quả trực tiếp của tiền kiếp đó.
Trong tiến trình chữa trị, sau khi thanh nạp, tôi dùng một tinh thể để xúc năng lượng ứ trệ trong vết thương gần đám rối thái dương (Hình 24-2). Năng lượng ứ trệ này xuất phát từ các cơ thể hào quang thứ hai và thứ tư. Tinh thể này hoạt động rất tốt cho mục đích ấy và đẩy nhanh quá trình tinh khiết hóa. Nó cũng bảo vệ thầy chữa khỏi hấp thu phải năng lượng ứ trệ đó.

Hình 24-3 chỉ rõ cái có thể nhìn thấy một khi đã thanh lọc được nhiều năng lượng ứ trệ từ các mức hào quang thứ hai và thứ tư. Tôi thấy một mũi giáo gắn trong đám rối thái dương của anh ta tại mức năng lượng thứ năm hay mức etheric mẫu. Cán giáo nằm hoàn toàn trong trường hào quang và cuộn lại theo hình xoắn ốc. Để lấy bỏ nó, trước tiên tôi phải nắn thẳng cán giáo, sau đó dùng cán rút mạnh mũi giáo ra, thanh lọc thêm vết thương và tiếp lại sinh khí cho khu vực đó.
Trong một số buổi chữa tiếp theo, tôi thao tác cùng các hướng đạo để tái cấu trúc hào quang ở mức ketheric mẫu (hay mức thứ bảy của hào quang). Trước tiên tôi tái cấu trúc mẫu của các cơ quan trong khu vực, sau đó tái cấu trúc luân xa. Hình 22-4 cho thấy những gì tôi nhìn thấy được khi tái cấu trúc luân xa. Những vạch ánh sáng trắng ngả óng vàng nhỏ xíu, xuất phát từ các ngón tay tôi, chuyển dịch rất nhanh để dệt nên một cấu trúc óng vàng của các cuộn xoáy tạo thành cấu trúc của luân xa đó. Mứ etheric màu xanh (vầng thứ nhất của hào quang) sau đó được bơm đầy và tựa trên mức óng vàng, y hệt như những tế bào của thân thể tựa trên lớp etheric màu xanh (bên dưới). Sau khi tái cấu trúc, lúc này luân xa trông như hình 24-5, giống một gương sen đẹp gồm những cuộn xoáy xoay tròn màu óng vàng.
Sau khi luân xa được tái cấu trúc, tôi và các hướng đạo tái cấu trúc dòng năng lượng chủ yếu đã tối màu, trệch hướng và tiến hành liên kết luân xa với nó. Như vậy, khi toàn bộ thao tác chữa trị được hoàn tất, bệnh nhân của tôi lại trông như hình 7-13 trong chương 7 với một bộ đầy đủ các luân xa hoạt động và dòng năng lượng chủ yếu.
Trong suốt khoảng năm buổi chữa được tiến hành cho công việc này, bệnh nhân dần dà cảm thấy cử động tự do hơn trong khu vực đó của thân thể. Anh ta cảm thấy đỡ căng trong các cơ ở lưng trước đây vẫn dùng để bù đắp cho trường năng lượng bị mất cân bằng. Anh cũng nói rằng anh thấy tự do hơn trong đời sống cá nhân.
Một tháng sau, tôi kiểm tra lại để đảm bảo mọi cái vẫn duy trì, rồi chuyển anh cho một người để họ thao tác sơ khởi lên thân thể nhằm tiến hành thêm việc tái cấu trúc thể chất, khi mà việc tái cấu trúc năng lượng đã hoàn tất. Còn cột sống của anh thẳng ra bao nhiêu vẫn chưa rõ. Việc này sẽ đòi hỏi nhiều buổi chữa trị rất sâu (xem phần nói về ánh sáng xanh ngả tía trong chương 23).
Chữa trị các dải tiền kiếp ở vầng ketheric mẫu
Như đã nói trước đây, một phương thức khác để đọc các tiền kiếp là chỉ đơn giản đặt hai tay lên các dải màu hiện ra tại mức ketheric hoặc mức vỏ trứng của hào quang. Bằng cách này và điều chỉnh màu đi vào tại đó, bạn có thể nhìn thấy các tiền kiếp tuôn chảy trước mắt bạn.
Dải tiền kiếp thích hợp với điều đang xảy ra đúng vào lúc này, trong đời sống hiện tại của con người, được tìm thấy xung quanh vùng mặt và cổ của bệnh nhân và trong hào quang, khoảng 2 1/2 - 3 fut ra bên ngoài. Bằng cách đặt hai tay lên mặt và dùng tay phải theo dải đi sang phải, dùng tay trái theo sang trái, bạn có thể nhìn thấy tiền kiếp đi ngang qua trong thời gian tuyến tính. Đúng là cái mà bạn tiến hành bằng thông tin này rất quan trọng.
Một lần nữa, thật không tốt nếu như đem đặt bệnh nhân vào một việc mà họ chưa sẵn sàng để biết. Nếu bệnh nhân đã tiến hành nhiều thao tác thanh lọc trên bản thân thì bấy giờ ta có thể để cho họ biết cái ta nhìn thấy. Điều này có thể liên quan nhiều đến cuộc đời hiện tại của họ. Tôi thường không để lộ thông tin này trừ khi mình đã quen với quá trình của bệnh nhân và biết rằng họ đã sẵn sàng đón nhận thông tin đó.
Tôi đã làm thay đổi chút ít các dải tiền kiếp này và nghĩ rằng chỉ nên thay đổi chúng ít thôi. Đôi khi tôi đưa hai tay lướt qua các dải tiền kiếp để làm cho chúng trong trẻo hơn hoặc "làm nhẹ bớt" chúng khi chúng hiện ra quá tải. Đôi khi tôi nhìn thấy trong một dải như thế, năng lượng bị cụm lại tại một dải; trong trường hợp này tôi thường tải nó ra dọc theo dải. Bệnh nhân thường thấy khuây khỏa và nhẹ nhõm khi tôi làm như vậy.
Tôi có cảm giác là những dải này liên quan đến nhiệm vụ mà người đó đã đảm nhận trong cuộc đời này và phải thực hiện để phát triển. Nhiều lần tôi có cảm giác là mình đang xâm phạm một không gian rất riêng tư của con người khi vào tới các khu vực đó, do vậy mà tôi lùi lại. Điều rất quan trọng cho thầy chữa là tôn trọng quyền lực của công việc mà bệnh nhân đang làm tại những mức cao này của trường và chỉ làm cái mà thầy chữa cũng như bệnh nhân đã sẵn sàng làm. Hiện tại, đây là nguyên tắc chung cho thao tác ở tất cả các mức của hào quang: Tôn trọng công việc và vị trí khiêm tốn của bạn trong sơ đồ lớn lao của vũ trụ, trong khi vẫn luôn tập trung vào yêu thương vô điều kiện vốn là nhà chữa trị vĩ đại nhất.
Điểm lại chương 24 
1. Những tắc nghẽn đôi khi liên quan đến các trải nghiệm tiền kiếp được nhìn thấy như thế nào ở mức tâm lý?
2. Hãy mô tả mối quan hệ giữa các tắc nghẽn tại trường năng lượng con người trong cuộc đời này và trong các cuộc đời khác.
3. Người ta có thể tiến hành việc chữa trị tiền kiếp như thế nào bằng phương pháp bàn tay?
4. Một điều rất quan trọng phải làm trong chữa trị sau khi lấy bỏ chấn thương tiền kiếp ra khỏi trường năng lượng con người?
5. Khi nào thì việc chữa trị tiền kiếp là thích hợp? Khi nào thì không? Có cần thiết không?
6. Các tắc nghẽn tiền kiếp nằm trong trường hào quang như thế nào?
7. Thế nào là chuyển đi trường điện một chiều? Hãy mô tả nó có liên quan đến trải nghiệm tiền kiếp như thế nào?
Để làm động não
8. Thế nào là một tiền kiếp nói chung, nếu như thời gian không tuyến tính?   
Chương 25
Nguyên tác: Hands of Light -
A Guide to Healing Through the Human Energy Field

TỰ CHỮA TRỊ VÀ THẦY CHỮA TÂM LINH
Hỡi thầy thuốc, hãy tự chữa cho mình"
 
Jesus
 
========================
Nhập đề
CẢI BIẾN VÀ TRÁCH NHIỆM ĐỐI VỚI BẢN THÂN
Bạn và chỉ có bạn là chịu trách nhiệm về sức khỏe của mình. Nếu bạn có một vấn đề thể chất, bạn phải có quyết định cuối cùng để theo đuổi một chương trình chữa trị riêng biệt. Bạn chỉ quyết định như vậy khi bạn thực sự chăm lo hết mức. Để bắt đầu, bạn chọn trong trận đồ rộng lớn sự giúp đỡ sẵn có cho hiệu lực đối với bạn. Bạn tin ai? Bạn theo đuổi việc chữa bệnh trong bao lâu trong khi bạn không thể nói được là nó có tác dụng hay không? Chỉ có thể trả lời những câu hỏi này từ sự tìm tòi sâu sắc cái thích hợp với bạn.
Nếu bạn không tin vào chẩn đoán thì không có gì là sai trái với quan niệm thứ hai hay thứ ba hoặc một kỹ thuật khác nói chung. Nếu bạn lẫn lộn điều bạn đã nghe nói về tình hình ốm yếu riêng của mình, thì hãy hỏi thêm bác sĩ, tìm vài cuốn sách, học hỏi điều mà bạn có liên quan. Hãy nhận lấy trách nhiệm đối với sức khỏe của bạn. Hơn tất cả là đừng để cho bản thân bạn bị giới hạn vào một tiên lượng tiêu cực. Tốt hơn là hãy coi đó như một thông điệp để nhìn sâu sắc hơn vào bản thân và rộng rãi hơn vào trong các phương pháp xen kẽ có thể có. Y học tiêu chuẩn phương Tây có nhiều câu trả lời, nhưng không trả lời được tất cả các câu hỏi. Nếu nó vô hiệu trong việc chữa một bệnh nào đó thì bấy giờ hãy nhìn vào một nơi khác. Hãy nhằm vào mọi cơ sở. Bạn sẽ ngạc nhiên rằng có biết bao điều phải học hỏi về bản thân và về sức khoẻ của mình. Sự tìm tòi sẽ thay đổi cuộc đời bạn theo những cung cách mà bạn không hề mong đợi. Tôi gặp nhiều người mà bệnh tật cuối cùng đã đem lại cho họ một niềm vui lớn lao, một sự nhận biết cũng như đánh giá sâu sắc cuộc đời và sự đáp ứng mà họ không thể thực hiện được trước khi ốm đau.
Nếu ta có thể chỉ thay đổi thái độ đối với bệnh tật thành một thái độ chấp nhận và nhận thức rằng đó là một thông điệp cần được nghiên cứu, thì ta sẽ làm nhẹ bớt đi nhiều nỗi sợ hãi của ta về bệnh tật, không những ở mức cá nhân mà có thể cả ở mức quốc gia hay toàn cầu.
Trong phần này, tôi sẽ trình bày những điều gợi ý của tôi về cách thức giữ gìn sức khỏe. Điều đó bao gồm việc thực hành hàng ngày từ đó mà chọn lựa cũng như dẫn giải về chế độ ăn, không gian và y phục. Nhưng trước hết, bạn cần phải yêu thương để giữ lấy sức khỏe của mình. Yêu thương bản thân cũng đòi hỏi thực hành hàng ngày.
 GƯƠNG MẶT CỦA NỀN Y HỌC MỚI: BỆNH NHÂN TRỞ THÀNH THẦY CHỮA
Do cách nhìn của ta về bệnh tật thay đổi, phương pháp chữa trị cũng thay đổi. Vì ta trở nên có khả năng hơn trong chẩn đoán và chữa trị nên có thể định rõ hơn các chương trình chữa bệnh của mình. Mỗi cá thể là đơn nhất và đòi hỏi một sự phối hợp hơi khác biệt các tác nhân sử dụng trong quá trình chữa trị. Từng buổi chữa cũng khác nhau. Thầy chữa phải chuẩn bị một vốn kiến thức rộng lớn, dồi dào yêu thương và có tiếp cận tốt với các hướng đạo tâm linh của mình trong chữa trị và dẫn kênh. Do chỗ ta đi vào một phương pháp chữa bệnh tế nhị hơn, nên việc thực hành trở thành một nghệ thuật. Đây là công trình nghiên cứu chi tiết về một bệnh nhân mà tôi đã tiến hành trong hơn hai năm, công trình này chứng minh rằng điều tôi nghĩ là một cái nhìn hé cỏn con vào cái ở phía trước chúng ta. Tôi chọn David vì công trình nghiên cứu về anh minh họa cho mọi mức độ và giai đoạn chữa trị. Nó cho thấy chữa trị sâu có thể đi vào cấu trúc nhân cách như thế nào khi được tiến hành trong thời gian lâu. Heyoan đã nói rằng "chất liệu chính xác dùng với liều lượng chính xác tại thời điểm chính xác thì tác động như một chất liệu cải biến". Trong công trình nghiên cứu này tôi sử dụng phối hợp thao tác bàn tay, trực tiếp nhận thông tin và phân tích động lực tâm lý. Những việc này kết hợp với sáng kiến riêng của bệnh nhân và trách nhiệm của anh ta đối với bản thân không những có tác động chữa bệnh mà còn đem lại những đổi đời sâu sắc. Những thay đổi sâu sắc này chỉ có thể xảy ra nếu bệnh nhân lãnh trách nhiệm đầy đủ về tự chữa trị.
Tìm ra nguyên nhân khởi đầu của bệnh tật luôn là phần then chốt của chữa trị. Trực tiếp nhận thông tin luôn là công cụ vô giá cho việc đó. Trong trường hợp giới thiệu ở đây, nguyên nhân gây bệnh được luận bàn từ quan điểm hoàn cảnh cuộc sống thể chất, kể cả các động lực tâm lý, các hệ thống niềm tin và kế hoạch đời sống tâm linh của bệnh nhân.
Chữa trị cho David
David lớn lên ở California. Bố mẹ anh là hai nhà tâm lý học. Anh yêu đại dương, lướt sóng và mặt trời. David nhận học vị Tiến sĩ Tâm động học tại trường đại học California rồi bắt đầu làm giảng viên. Về sau anh sống một thời gian ở Ấn Độ, tại đây anh yêu một đồng hương là cô Anne và cũng trở nên khá ốm yếu. Anh và Anne trở về Hoa Kỳ. Trong bốn năm liền sau đó, anh đi khắp nước để tìm cách chữa chạy và người ta đặt cho anh những chẩn đoán bệnh khác nhau, từ "có khả năng bị tăng bạch cầu đơn nhân", "vim gan mãn tính dai dẳng", "mắc loại bệnh virus chưa biết" đến "do cái đầu cả thôi, anh chẳng có gì trục trặc đâu". Trong khi đó, năng lượng của anh suy giảm nhanh chóng và anh ngày càng thấy làm việc khó khăn hơn. Vào thời gian anh đến chỗ tôi, năng lượng của anh khá lên trong một hai ngày, sau đó biến mất và anh phải nằm tại giường một hai ngày.
David bước vào phòng làm việc của tôi với trường năng lượng như Hình 25-1A. 

Vấn đề rõ nhất và nghiêm trọng nhất là ở luân xa đám rối thái dương bị rách toan và cần phải khâu để lấy lại dáng hình trên toàn bộ các vầng cấu trúc của trường, kể cả vầng thứ bảy. Vấn đề quan trọng thứ hai là tình trạng méo mó của luân xa 1; luân xa này cong sang trái và bị bít. Điều đó gây nên tình trạng thiếu khả năng thu năng lượng vào hệ thống năng lượng qua luân xa nền này. Sự phối hợp của luân xa 3 bị rách gầy rò năng lượng với luân xa 1 bị bít đã tạo ra một hệ thống năng lượng suy kiệt. Sự suy kiệt này sẽ được cảm nhận rõ rệt về thể chất vì luân xa 1 chuyển hóa phần lớn năng lượng phối hợp với sức mạnh thể chất, như đã được luận bàn ở Chương 11. Cộng thêm vào những vấn đề này, hào quang còn cho thấy có suy kiệt và ốm yếu ở luân xa 2 là luân xa không những phối hợp với chức năng sinh dục (ở bên dưới) mà còn phối hợp với hệ thống miễn dịch. Có một trung tâm bạch huyết khu trú tại đó. Trung tâm tim cho thấy có tắc nghẽn sâu bên trong các cuộn xoáy. Nó cũng phối hợp với hệ thống miễn dịch thông qua tuyến ức. Tắc nghẽn này khu trú ở 2/3 đường đi xuống vào trôn ốc của luân xa tim. Mỗi lần tôi nhìn thấy dung mạo này ở mọi người, tôi đều thấy nó phối hợp với một vấn đề có liên quan đến mối liên hệ của cá thể với Thượng đế và lòng tin của cá thể về vấn đề Ý chí Thượng đế là gì (vấn đề này sẽ được nói thêm sau). Trung tâm họng bị nạp thiếu năng lượng. Trung tâm này phối hợp với giao lưu, trách nhiệm đối với bản thân cũng như với cho và nhận. Con mắt thứ ba bị bít và làm nghẽn toàn bộ con đường đi sâu vào đầu và vào tuyến tùng. Luân xa đỉnh đầu ốm yếu và nạp thiếu. Toàn bộ hào quang xẹp và mờ.
Qua khám xét các cơ quan, tôi thấy nhiều năng lượng tắc nghẽn và có màu tối trong gan. Có những lớp biến màu trong gan. Nơi thì màu lục thẫm lầy nhầy, nơi thì vàng ệnh, và khi vào sâu tới gần cột sốt thì có những khu vực gần như màu đen. Ma traạn etheric của bản thân gan bị rách và biến dạng. Qua kiểm tra kỹ càng hơn, tôi thấy có nhiều vi sinh vật lây nhiễm, có kích thước và hình thù phần nào giống vi khẩn và virus. Những vi sinh vật này rải ra khắp vùng bụng giữa bao gồm tụy, lách và đường tiêu hóa. Trên bề mặt của tụy có một cuộn xoáy nhỏ xoay tròn nhanh tạo nên tiếng rít the thé. Dung mạo này thường phối hợp với những vấn đề về chuyển hóa chất đường, như bệnh đái tháo đường (tiểu đường) hay bệnh hạ đường huyết. Trường tổng thể bị nạp thiếu và ốm yếu. Thay vì những dải sáng đẹp từ vầng thứ sáu đi ra thì ở đây chúng thiếu khí lực và xám xịt. Đây là một người rất ốm yếu.
Với sinh viên học chữa trị, tôi gợi ý là tới điểm này bạn hãy ngừng đọc, phân tích trường cũng như vạch kế hoạch chữa trị mà bạn sẽ làm theo. Bạn sẽ bắt đầu từ đâu trước? Bạn sử dụng hết số năng lượng mà bạn có thể cho chạy vào hệ thống này để nạp cho nó? Tại sao, hoặc tại sao không? Khi nào thì bạn sửa chữa vết rách của vầng thứ bảy và tại sao? Bạn có hình dung ra nguyên nhân khởi đầu của bệnh này là gì không và nó hiện ra trên trường hào quang như thế nào? Sẽ chóng hay chậm hồi phục? Tại sao? Tất cả những câu hỏi này sẽ được giải đáp trong mô tả sau đây của tiến trình chữa trị.
Tiến trình chữa trị: Giai đoạn thứ nhất: Thanh lọc, nạp và tái cấu trúc trường
Trong vài ba tuần đầu, chữa trị tập trung trước nhất vào việc thanh nạp trường, nắn thẳng luân xa 1 và sau đó sửa chữa vấn đề ở khu vực luân xa 1 một cách từ tốn nhưng chắc chắn. Lắm lúc tôi phải ngồi hàng nửa giờ đến bốn mươi nhăm phút, hai tay đặt lên vùng gan của David và khu vực luân xa 3. Không thể nạp thật mạnh năng lượng cho hào quang vì có tình trạng ốm yếu trong khu vực luân xa 3. Nếu nạp mạnh năng lượng vào có thể xé rách thêm luân xa đó. Nắn thẳng và thanh lọc luân xa 1 trong mấy tuần đầu tương đối dễ. Việc này được thực hiện có hệ thống, trong khi phần lớn tiêu điểm của mỗi lần chữa lại tập trung vào vùng bụng giữa. Việc sửa chữa các vết rách trong trường hào quang tốn nhiều thời gian vì có quá nhiều những thay đổi cần thiết. Không thể nạp đầy năng lượng cho hào quang vì vết rách ở luân xa 3 có thể hoặc sẽ toạc thêm hoặc nhất định sẽ làm rò thêm năng lượng nếu nạp mạnh  vào đó. Mỗi lần David đi vào, chúng tôi lại thanh nạp, nạp năng lượng và sửa chữa từng phần của khu vực luân xa 3, tạm thời đặt "dấu niêm" hoặc "băng gạc" lên vết rách và để cho nó liền lại trong vòng một tuần. Tuần tiếp đó lại làm thêm một chút. Mỗi tuần tôi lại đi sâu hơn vào trường hào quang để sửa chữa cấu trúc của nó, bắt đầu bằng tinh khiết hóa, sau đó bằng tái cấu trúc, làm dần từng bước. Trước tiên phải sửa chữa cấu trúc của mức etheric, sau đó là mức etheric mẫu của gan và các cấu trúc giải phẫu khác trong vùng này cũng như luân xa. Từng tuần lễ trôi qua, năng lượng của David bắt đầu lên được ít nhiều. Thay vì những giai đoạn lên xuống gấp gáp,  bệnh nhân đã ổn định ở mức thấp thường xuyên. Đối với anh, điều này không có vẻ gì là tiến bộ, nhưng tôi cho là có. Tôi đã nhìn thấy được trường của anh dần dần tự hiệu chỉnh lại. Thay vì những lắc lư mạnh đột ngột của năng lượng do cơ thể tìm cách bù đắp tình trạng ốm yếu rồi sau đó không duy trì nổi bù đắp này, bây giờ năng lượng của bệnh nhân đã lên được ở mức mà cơ thể có khả năng duy trì trong điều kiện hiện tại. Tình hình nói trên làm David rất nản lòng.
Luân xa 1 của David bắt đầu giữ được tư thế đã nắn thẳng và luân xa 2 bắt đầu nạp đủ. Cuối cùng bệnh nhân bắt đầu lấy lại năng lượng và bản năng sinh dục của mình. Anh cũng bắt đầu cảm thấy ít bị xúc động hơn.
Trong phần lớn thời gian ba tháng đầu chữa trị cho David, Heyoan không bình luận gì với anh ta cả. Heyoan chỉ nói với tôi rằng David trước đây đã thuyết trình khá nhiều về tâm lý học hay tâm linh và điều đó chẳng khác gì "luật vũ trụ đem tọng vào họng anh ta". Vì thế tôi đã cố kìm lại không tiến hành thao tác tâm lý động lực học vào giai đoạn này. Ở giai đoạn này, việc đó không phải là điều quan trọng nhất. Nạp lại và sửa chữa quan trọng hơn nhiều. Thầy chữa chỉ có thể chuyển dịch mỗi khi bệnh nhân có khả năng chuyển dịch. Cuối cùng, trường của David trở nên đủ mạnh để qua đó cho chạy đủ năng lượng có rung động cao để sửa chữa vầng thứ bảy.
Sau đó David bắt đầu đòi hỏi nhiều thông tin hơn. Anh bắt đầu đặt ra các câu hỏi về ý nghĩa bệnh tật của mình mong hiểu được nó trong những giới hạn hoàn cảnh sống riêng của anh.
Tiến trình chữa trị
Giai đoạn thứ hai: Các động lực tâm lý và một vài nguyên nhân khởi đầu

Việc thẩm tra David bắt đầu khi luân xa 3 ký ức tuyến tính) bắt đầu hoạt động êm ả hơn. Dần dần một bức tranh hình thành tại mức nhân tính của các nhân tố gây bệnh nơi anh.
Như đã luận bàn trong chương 8, con cái có những mối liên kết vững chắc với mẹ. Liên kết này hình thành khi đứa bé còn nằm trong bụng mẹ và sau khi nó chào đời thì liên kết này có thể thấy trong dây rốn hào quang tồn tại giữa hai mẹ con. Dây hào quang này liên kết luân xa 3 của hai người. Sau khi sinh cũng có một mối liên kết vững chắc được hình thành giữa hai mẹ con qua luân xa tim của họ.
Vết rách khởi đầu trong luân xa 3 của David xảy ra vào thời gian cậu bé sắp bước vào tuổi dậy thì khi cậu nổi loạn vì bà mẹ chuyên áp chế và kiểm soát con cái. Trước đó David vẫn làm hết sức mình để mẹ vui lòng. Bố mẹ cậu, cả hai đều là chuyên gia tâm lý học, đã vô tình sử dụng sai kiến thức của họ để ra sức kiểm soát con trai.
Giải pháp của David để có được quyền tự quản cũng giống như của nhiều thiếu niên khác. Cậu cắt đứt quan hệ với bố mẹ. Thật đáng tiếc, cách xử sự duy nhất mà cậu biết, theo đúng nghĩa của từ, lại là cắt đứt mối quan hệ vốn ràng buộc cậu với mẹ. Cậu còn lại một mình, mất dây rốn hào quang và mang một lỗ thủng trong khu vực đám rối thái dương. Dĩ nhiên điều tự nhiên nhất là tìm một người nào để liên kết và nhờ vậy mà thay thế được mẹ (vào giai đoạn này, ai cũng nghĩ vấn đề là mẹ, chứ không phải bản thân). Chẳng may, David phát hiện ra rằng anh liên kết với những phụ nữ có tính hay kiểm soát. Hệ thống năng lượng của anh thường tự động hấp dẫn một vài người có tính hay kiểm soát, đơn giản vì đó là thứ năng lượng mà anh quen sử dụng để được liên kết. Điều này David cảm thấy "bình thường" (giống nhau thì hút nhau). Những mối quan hệ khiông ưng ý này dẫn anh tới chỗ đi tìm chính mình và cuối cùng anh đến với một nơi tu đạo ở Ấn Độ. Anh bắt đầu thấy rằng vấn đề nằm ngay bên trong anh.
Ở mức trái tim, luân xa 4 của David không khi nào thực sự liên kết vững chắc với luân xa 4 của mẹ anh. Ngay từ đầu bà đã không chấp nhận con người như anh. Khi anh liên kết với mẹ bằng trái tim mình, anh thấy việc đó là cần thiết để trở thành con người mà bà muốn có nơi anh. Điều đó có nghĩa là tự phản bội. David cảm nhận sự phản bội nơi tim anh. Chàng trai nào cũng có một lời cam kết của trái tim. Mặc dù anh liên kết vững chắc với trái tim mẹ qua trái tim anh, cuối cùng anh phải học cách chuyển cái đó tới người bạn đời của mình, như vậy anh mới có thể trở thành người đàn ông đầy đủ với khả năng sinh dục dồi dào, một trải nghiệm mà anh không hề có với người đầu tiên mà anh yêu thương là mẹ mình. Nếu anh không liên kết với trái tim của mẹ thì lúc này anh không có hình mẫu để làm như vậy khi đến lúc tìm bạn trăm năm và sẽ gặp khó khăn khi yêu.
Vấn đề quan hệ của David cũng là vấn đề không biết cách liên kết với yêu thương thông qua trái tim. Điều này đã đưa anh đến Ấn Độ, đến với một tôn sư mà theo như David nói là "Người có tấm lòng quảng đại". Qua trải nghiệm nơi tu đạo ấy, David đã học được cách liên kết trái tim. Đầu tiên với tôn sư, sau đó với Anne, người mà anh gặp nơi đây. Tuy nhiên anh phát hiện ra rằng khi liên kết qua trái tim với tôn sư, anh cũng nâng cao dần được ý chí. Anh cố gắng học yêu thương vô điều kiện, nhưng các điều kiện đã ăn sâu. Vì David nâng cao được ý chí, anh lại bắt đầu thấy bị phản bội nhưng lần này lối thoát không phải là yêu một con người khác, mà là yêu nhân loại và yêu Thượng đế. Lối thoát bây giờ lộ ra trong hình thái ý chí của David đối đầu với ý chí Thượng đế. Điều này thấy được trong dung mạo của tim ở trường hào quang. David thấy rằng vì anh không còn là "con ngoan" đối với mẹ anh thì anh là "con ngoan" đối với tôn sư và Thượng đế. Anh và Anne quyết định rời đi và anh trải nghiệm một vết rách khác ở luân xa 3 khi họ rứt khỏi tôn sư. Nhưng anh đã biết sử dụng trái tim mình. Lần đầu tiên trong đời, David liên kết sâu sắc với một phụ nữ xuất phát từ trái tim cũng như qua các luân xa đám rối thái dương.
Việc tìm kiếm sự chấp nhận và tình yêu hoàn hảo là rất mạnh mẽ trong linh hồn con người và sẽ hướng dẫn nó qua nhiều bài học. Tôi thấy có những người trải qua nhiều năm sống tại một cộng đồng tâm linh học cách khai mở trái tim họ, nhưng lại từ bỏ dần nhiều hành vi tự quản, hệt như điều họ đã làm giữa tuổi ấu thơ. Nhiều người thấy rằng điều đó đã giúp họ trải nghiệm tình yêu sâu sắc trong ranh giới một cộng đồng được cấu trúc, trước khi họ có thể mang nó ra để tự ý mình đưa vào thế giới.
Điều này đặc biệt xác thực nếu như nó không được trải nghiệm nơi ngôi nhà thời thơ ấu. Sau khi trải nghiệm yêu thương tại cộng đồng và không may từ bỏ đôi chút ý chí tự do của mình để làm như vậy, bây giờ họ cần giữ yêu thương đó trong tim và quy phục ý chí Thượng đế như được biểu thị trong trái tim của chính họ, không phải theo định nghĩa của ai đó về ý chí Thượng đế.
Việc chữa trị cho David tiến triển thi những vấn đề về quan hệ của anh với người bạn gái vốn đã mãn tính nay trở nên không chịu đựng nỗi đối với anh. Anh đã đổi thay bằng những cung cách không tương hợp với các rung động của người bạn đời bởi vì chị không đổi thay theo lối đó. Trường hào quang của hai người không cùng đập một cách hài hòa nữa.
Người nào từng có quan hệ dài lâu thì biết hiện tượng đó. Nếu bạn đổi thay mà bạn đời của bạn không thay đổi với tốc độ tương tự thì sẽ có lúc cả hai đều ngạc nhiên rằng mình đang sống với ai đây. Người kia có thể đổi thay và trở nên tương hợp được không? Thường là được, nếu cả hai sống trong kiên nhẫn và yêu thương. Nếu không thì cuối cùng người ta sẽ tiếp tục như cũ. David và Anne bắt đầu cùng nhau làm việc để giải quyết các vấn đề của họ. Với nhiều yêu thương và chân tình, họ tập trung trước hết vào những tâm lý động lực của hoàn cảnh. Điều quan tâm chính của David đã quay về với công việc, với tự do của anh và có được quyền lực của chính anh. Nhưng Anne lại muốn tiếp tục theo tôn sư của mình và xây dựng một lối sống khác.
Cùng với những sợi dây năng lượng phát triển giữa mẹ và con, những người có quan hệ với nhau luôn để cho các sợi dây này nảy nở giữa họ. Chúng được liên kết qua các luân xa. Trong một quan hệ lành mạnh thì những sợi dây này có màu vàng tươi trong trẻo, cân bằng và liên kết qua hầu hết các luân xa. Trong nhiều mối quan hệ, những sợi dây này chỉ lặp lại một cách đơn giản những liên kết không lành mạnh từ tuổi ấu thơ giữa bố mẹ và con cái; nhiều những sợi dây này liên kết tại đám rối thái dương và có màu tối. Trong quá trình cải biến một quan hệ không lành mạnh thành lành mạnh, cần phải tháo gỡ những sợi dây không lành mạnh, nạp năng lượng cho chúng và tái liên kết chúng sâu vào trong nồng cốt riêng của cá thể. Chúng là những sợi dây mang tính lệ thuộc cần được cắm rễ trở lại vào trong cá thể đến mức anh ta có thể tự tin. David và bạn anh dần dần tháo gỡ những sợi dây mang tính lệ thuộc của họ. Đây là một quá trình thật dễ sợ. Cảm nhận của con người đôi lúc như bồng bềnh trong không trung, chẳng liên kết được với bất cứ cái gì. Làm như vậy, người này bỏ được "tính an toàn viển vông" của sự cứng nhắc và thay thế nó bằng sự tự lực có tính linh hoạt.
Nếu bạn đã kinh qua ly hôn hay phải chịu đựng cái chết của người bạn đời thì bạn sẽ hiểu được hiện tượng này. Nhiều người coi vợ hoặc chồng mình là "nửa tốt hơn" của họ. Nhiều người mất vợ hoặc mất chồng nói với tôi rằng họ có cảm giác bị rứt riêng ra hoặc bị mất nửa tốt hơn của con người họ. Giữa một chấn thương nghiêm trọng như vậy, ai cũng cảm thấy như toàn bộ khuôn mặt của mình bị giật phăng ra. Thật đúng y như vậy. Nhiều lần tôi thấy những sợi từ đám rối thái dương phát ra theo đuôi nhau lằng nhằng trong không gian sau cảnh chia ly đau đớn nhường ấy.
Tiến trình chữa trị
Giai đoạn thứ ba: Những chất liệu cải biến

Khi David lại sức, anh đóng vai trò tích cực hơn trong các buổi chữa. Anh bắt đầu đặt ra cho Heyoan những câu hỏi rất sâu về chuyên môn. Anh hỏi Heyoan rằng anh cần theo cách điều trị nào (thường tôi vẫn thấy các vi sinh vật trong vùng bụng giữa của David. Anh cần điều gì đó). David đã nghe nói đến một loại huyết thanh Canada giúp những người mắc các loại bệnh gây suy nhược. Anh ta có phải dùng huyết thanh đó không? "Không", Heyoan đáp. "Đúng, thuốc đó có thể giúp ta chút ít nhưng có loại thuốc khác rất mạnh". Heyoan bảo tôi rằng cái đó có liên quan đến một chất được dùng chữa sốt rét giống như quinine. Nói đoạn Heyoan đưa cho tôi xem bức tranh bể bơi và bảo rằng phần đầu của từ là chlorine, như chất ở bể bơi. Tên thuốc nghe như là chlorin, quinine. Chloroquine. Heyoan nói là nếu David dùng thuốc này thì thuốc có tác dụng rửa cho gan sạch. Người chỉ cho tôi bức tranh gan của David đang được rửa sạch bằng một chất lỏng ánh bạc. Rồi Người nói thêm rằng David có thể có được thuốc đó qua một bác sĩ tại vùng New York nơi chúng tôi sống. Heyoan cũng tuyên bố rằng David không được dùng với liều lượng chuẩn, mà phải thay đổi liều lượng phù hợp với nhu cầu của mình, hàng ngày kiểm tra xem anh cần gì bằng cách sử dụng tri giác cao cấp của mình và một con lắc.
David bắt đầu tìm kiếm. Tuần tiếp đó, khi anh đến chỗ làm việc của tôi, tay cầm một ít chloroquine thì tôi sửng sốt. Tôi chưa hề nghe nói về thuốc này. David đã hỏi một bác sĩ rằng ông ta có nghe nói về thứ thuốc gì như Heyoan đã mô tả không. Bác sĩ lập tức lấy từ trên giá xuống một cuốn sách nói về sử dụng chloroquine. Thuốc này được dùng trong một số trường hợp viêm gan mãn dai dẳng như của David. Khi chẩn đoán của bác sĩ thống nhất với chẩn đoán của Heyoan thì ông ta kê đơn cho chloroquine với liều bình thường.
David bắt đầu dùng thuốc này và hàng ngày kiểm tra liều lượng bằng con lắc. Năm ngày đầu, thuốc không những ảnh hưởng mạnh đến David về thể chất mà cònlàm cho anh dễ xúc cảm. Anh đi sâu vào trạng thái xúc cảm oằn oại đau đớn. Anh trải ngiệm mạnh mẽ các vấn đề của mình (đã mô tả ở trên). Anh mô tả trải nghiệm trong một ngày như thể là anh trải qua một ngày "đào bới vào trong bụng người bạn gái của anh". Anh biết rằng đó là một cuộc tinh khiết hóa. Anh muốn tái trải nghiệm các cảm giác để tự chữa trị. Sau năm ngày, anh ngừng chloroquine theo gợi ý của con lắc.
Heyoan bảo David dùng các loại trà có tác dụng tinh khiết hóa và các vitamin trong một hoặc hai tuần sau cuộc vật lộn với chloroquine. Nhìn từ trường hào quang, tôi thấy rằng sau khi David dùng thuốc được năm ngày, đại tràng của anh (lầy nhầy, nâu ngả vàng) bị bít do việc thải các độc tố trong khi anh thanh lọc các ổ nhiễm khuẩn. Cần phải dùng các loại trà có tác dụng tinh khiết hóa. Sau vài ngày ngưng chloroquine, David "đọc thấy" bằng con lắc đã đến lúc quay lại dùng thuốc đó. Anh dùng. Dùng vài ngày lại nghỉ vài ngày. Mỗi lần dùng thuốc anh lại đắm mình vào trong một vầng khác của nhân cách cần thanh lọc. Mỗi lần làm như thế, anh thấy mình khỏe hơn, nhanh nhẹn hơn và giàu quyền lực hơn. Mỗi lần anh sử dụng nó là có thêm nhiều vi sinh vật được thanh lọc khỏi thân thể, hào quang của anh trở nên sáng hơn và đầy đặn hơn. Anh đang thực sự tự cải biến. Từng thời gian Heyoan lại gợi ý với anh một loại vitamin khác hay chất khoáng (như ferrum phosphate, iron phosphate) để giúp cho việc chữa trị được tốt hơn.
Tôi hỏi Heyoan tại sao Người không đề cập đến chloroquine sớm hơn. Người nói rằng trường của David bị thương tổn đến mức anh ta không thể chịu đựng nỗi những tác động mạnh của chloroquine cho đến khi hoàn tất việc sửa chữa.
Suốt trong giai đoạn chữa trị thứ hai khi David bắt đầu xử lý các động lực tâm lý thì anh và Anne vài lần cắt đứt quan hệ. Họ đã sống với nhau cả chục năm và giữa hai người có nhiều việc cần giải quyết. Dần dà họ thấy ngày càng tác ra xa nhau hơn, cuối cùng thì chia tay. Trên quan điểm hào qaung, do chỗ đám rối thái dương của David không còn rách nữa và trường hào quang của anh được nạp sáng ngời lên, anh không còn tương hợp về rung động với người vợ cũ. Sự chọn lựa của chị là đổi thay theo cung cách khác, đi con đường của riêng mình và tạo ra cuộc sống của riêng mình.
Khi David lại sức, anh bắt đầu xử lý mối quan hệ của mình với Thượng đế và ý chí Thượng đế. Anh bắt đầu tiến hành thiền định để tìm ý chí Thượng đế ngay trong bản thân mình. Khi anh làm việc này, anh bắt đầu thanh lọc tình trạng kìm nén sâu sắc trong luân xa tim của anh. Anh bắt đầu quy phục trái tim của chính mình. Emmanuel (1985) đã nói:
Mong muốn giải thoát
làm cho giải thoát khó khăn hơn
bởi vì nó không chịu nhường ý hí
Nó chịu nhường sự đầu hàng.
Bài học cuối cùng cho mỗi linh hồn
là hoàn toàn quy phục
Ý chí Thượng đế
hằng hiển hiện trong chính con tim
Một thời gian ngắn sau đó, David gặp một chị và bắt đầu đặt quan hệ. Đối với anh, mối quan hệ này vừa là chỗ dựa vừa dinh dưỡng tinh thần. Khi tôi tiến hành đọc mối quan hệ này của David, tôi có thể nhìn thấy anh đang được trường hào quang của người bạn mới vuốt ve. Cứ như thể tác động của riêng người bạn này đã làm cho trường của anh mở rộng ra, trái với trước đây mỗi khi có mặt người mà anh quan hệ là anh luôn luôn thu hẹp trường của mình lại.
Tiến trình chữa trị
Giai đoạn thứ tư: Biến hoá và Hiện thân mới

Trong tháng cuối làm việc với David, tôi bắt đầu nhìn thấy một dung mạo bên trong trường hào quang của anh mà trước đây tôi không hề nhìn thấy.
Dường như dung mạo này bị thao tác của chúng tôi làm cho bộc lộ ra. Nó tựa như một cái kén bao quanh cột sống. Tôi khó mà nói là nó nằm ở mức nào của trường. Nhưng dường như cái kén này chứa đựng nhiều năng lượng tiềm tàng đang chờ được đánh thức. Tôi không nói gì với David về chuyện cái kén, nhưng lặng lẽ theo dõi nó khi tôi thao tác chủ yếu để thanh lọc luân xa 6 của anh. Toàn bộ phần còn lại của hào quang thì trong trẻo và sáng (hình 25-1B)
David tới chữa buổi cuối cùng, dáng vẻ rất khác. Hào quang của anh sáng gấp ba lần và rộng hơn thường ngày. Cái kén đã mở ra. Tôi hỏi chuyện gì đã xảy ra với anh. Anh bảo tôi rằng hồi cuối tuần anh đã dùng một thứ thuốc mà dân gian gọi là xuất thần hay MDMA, một thứ thuốc tổng hợp thuộc loại phenylethylamine được tổng hợp  từ methamphetamine và safrole. Qua khám xét kỹ càng, tôi có thể thấy MDMA đã khai mở phần bên trái của tuyến tùng. Chất nhầy từ con mắt thứ ba trước đây nằm một phần tại đó và chất LSD được thanh lọc ở phía bên phải. Không còn việc gì để làm nữa nhưng sự thay đổi toàn bộ tại trường hào quang của David thật đáng kinh ngạc.
Bởi vì trước đây qua quan sát tôi luôn thấy các thuốc dưỡng tâm thần có tác dụng tiêu cực đối với hào quang, tôi bèn hỏi Heyoan về vấn đề này. Người bảo:"Cái đó tùy thuộc vào người dùng thuốc và dung mạo của trường tại thời điểm sử dụng. Vì luân xa 6 của David bị bít và đã đến lúc anh phải hoạt động để khai mở nó, cho nên thuốc có tác dụng mạnh mẽ. Nhưng nếu đương sự phải tập trung vào một luân xa khác thì tác dụng phần lớn là tiêu cực.
Khi một bệnh nhân khác hỏi liệu chị ta có thể dùng MDMA hay không, Heyoan nói "không, tôi không khuyên cô dùng thuốc đó. Tốt hơn hãy dùng ovatrophine để tăng lực cho luân xa 2 là nơi cô cần hoạt động". (Ovatrophine được chế tạo từ buồng trứng bỏ bảo quản lạnh khô). Chị này dùng ovatrophine và cũng xảy ra điều tương tự như khi David dùng chloroquine. Heyoan muốn nhấn mạnh rằng nền y học mới này ban cho ta đủ mọi trình độ để chữa trị cả con người trọn vẹn. Nền y học này tập trung vào vận mệnh của linh hồn coi như đó là lối thoát chủ yếu. Học bài học nào, và bằng cách nào cá thể có thể học tốt nhất bài học ấy? Cuối cùng bài học là ở chỗ bạn là phần nhỏ xíu của Siêu phàm. Càng nhớ điều đó, bạn càng gần về tới đích. Có thể dùng thuốc men làm chất liệu cải biến. Thuốc không chữa bệnh: Thuốc giúp cá thể tự chữa bệnh. "Chất liệu chính xác dùng với liều lượng chính xác tại những thời điểm chính xác giúp cho cá thể tự cải biến", Heyoan nói.
David đặt nhiều câu hỏi cho Heyoan  trong lần gặp gỡ cuối cùng của chúng tôi. Điều bộc lộ ra xung quanh việc đổi thay của anh và ý nghĩa của cái kén khuyến khích chúng tôi nghe. David hỏi là điều gì đã xảy ra với anh trong khoảng một tháng đầu khi anh bắt đầu cảm thấy có đổi thay sâu sắc dường như thường xuyên trong bản thân anh. Đó là khi tôi bắt đầu nhìn thấy cái kén. Vào thời gian đó anh bắt đầu thấy mình kiểm soát được cuộc sống của mình, cuộc sống đang tạo ra con đường mà anh mong muốn. Anh có một mối quan hệ tốt đẹp và anh quyết định đi về bờ biển phía Tây. Heyoan nói rằng một tháng trước đó David đã hoàn tất việc hóa thân. David bắt đầu vòng cuối của việc hoàn tất này sáu năm về trước, vào thời gian anh tới Ấn Độ. Đó là chu trình cuối của cả cuộc đời này, trong đó anh đã chọn việc hóa thân, khai mở trái tim mình. Một tháng trước đó anh đã hoàn tất nhiệm vụ này. Lúc bấy giờ được tự do ra đi nhưng anh đã có sự lựa chọn, không làm như vậy, mà đầu thai vào cùng thân thể này. Heyoan nói rằng những cuộc đời tương lai của con người đã được đặt vào trường hào quang trước khi lọt lòng và các cuộc đời đó có thể được anh ta nhận đảm trách vào lúc vừa hoàn tất một cuộc đời nếu anh ta lựa chọn như vậy. Có thể làm được điều đó mà không phải lìa bỏ thân thể. "Hãy nghĩ rằng làm như thế sẽ hiệu quả hơn biết bao", Heyoan nói. Năng lượng cái kén hiển hiện xung quanh cột sống của David là năng lượng - ý thức của cuộc đời mà anh ta mới bắt đầu. Heyoan nói rằng phải mất ba năm nữa mới hợp nhất được hai mức tồn tại của anh lại thành một, và điều ấy sẽ trở nên quen thuộc phần nào. Anh sẽ có thêm nhiều năng lượng và nhiều hiểu biết hơn có hiệu lực nếu anh hợp nhất năng lượng này vào thực tại của mình. Heyoan gợi ý rằng nếu David muốn thì anh có thể lấy họ tên khác. Heyoan nói thêm là tương lai không phải cứ như quá khứ. Sau đây là một phần của cuộc đối thoại giữa hai người:
David: "Tái hóa thân vào cùng một thân thể thì có ý nghĩ gì?"
Heyoan: "Về một nghĩa nào đó và ở đây chúng mình phải dùng phép ẩn dụ, bạn ngồi xuống cùng với các hướng đạo tâm linh của mình trước khi sinh và chọn bố mẹ; chọn một bộ các thực tại có khả năng xảy ra; và chọn một bộ năng lượng để về sau dùng vào việc tạo dựng thân thể. Về một nghĩa nào đó, bạn tách một phần từ Bản chất vĩ đại của mình, nắm lấy ý thức kia và dùng cái đó mà sáng tạo ra thân thể. Bạn chọn bố mẹ cùng những đặc tính thể chất được thừa hưởng. Bạn ngồi xuống và chọn tất cả cái đó cho một mục đích rõ ràng. Nếu trong cuộc đời riêng bạn hoàn tất chủ đích ấy và đạt tới mục tiêu nào đấy thì về sau lúc nào bạn cũng dễ dàng giúp đỡ cuộc đời khác. Bạn chỉ đơn giản trộn lẫn ý thức mới được sử dụng trong thân thể tiếp sau vào  thân thể cũ và ý thức cũ. Như vậy là bạn đã làm tốt công việc của mình và do chỗ bạn hòa lẫn ý thức mới của bạn bên trong "thân thể cũ", bạn sẽ thấy xảy ra nhiều đổi thay vì lúc bấy giờ bạn đang hợp nhất hai người thành một".
David: "Cả hai đã sẵn sàng .
Heyoan:"Hoàn toàn đúng như vậy. Đây không phải là điều kỳ diệu hay sao? Lúc bạn nhắm mắt, bạn thích nói lời cáo biệt hay là thích buông rơi thân thể, không còn cần đến thân thể như một công cụ cải biến, chuyển đổi và siêu nghiệm, để rồi không còn sáng tạo được ra nó? Thân thể là công cụ, là cỗ xe mà bạn sáng tạo ra để tập trung vào một số điểm trong bản ngã, mà bạn hằng ước ao cải biến bằng một phương sách hữu hiệu nhất. Mọi hệ thống trong thân thể bạn được cấu trúc chính xác để dùng cho cải biến đó. Bạn sẽ thấy điều này trong công việc của bạn, trong hệ thần kinh, trong hoạt động tự động của thân thể, cho tới những tế bào nhỏ xíu của xương. Bạn sẽ phát hiện ra rằng mỗi phần của thân thể bạn là một công cụ tinh tế và đẹp đẽ dùng cho việc cải biến. Đó không phải là gánh nặng. Đó là thiên tài. Thật không may khi phần đông chúng ta không hiểu điều đó.
"Nếu chúng mình lại sử dụng ẩn dụ về việc ngồi vào bàn hội thảo để lựa chọn cuộc đời của bạn thì lúc bấy giờ bạn, cái phần lớn hơn ấy của bạn, cái phần không hóa thân trọn vẹn (và chúng mình phải nói rằng bạn không thể nào làm được điều đó mặc chăng hay chớ), cái phần lớn hơn ấy của bạn sẽ quyết đkịnh hoặc có hoặc không dành cho bạn chỗ tốt nhất, bởi vì công việc cải biến sắp tới sẽ tiến hành trong thân thể hay không. Và khi bạn đã sử dụng hết mức những cỗ xe thể chất đó, cái nào cũng được, thì đó là lúc bạn đã kết thúc chu kỳ sống chết như người ta thường gọi, hoặc đã quay hết vòng bánh xe hóa thân trên bình diện thể chất. Điều này đơn giản, có nghĩa là bạn không còn cần đến công cụ đó để tách ra một thời gian tuyến tính và một không gian ba chiều nó làm cho bạn dễ nhìn thấy hơn những điểm đặc thù mà bạn mong muốn cải biến. Điều này có nghĩa là bạn quyết định vào lúc đó, đúng là bạn, cái phần lớn hơn ấy của bạn và bạn là một linh hồn cao cả, cao cả hơn nhiều so với phần nhỏ bé được hóa thân. Sau đó, ta có thể nói rằng bạn sẽ phán định việc sử dụng thân thể là có lợi hay không có lợi.
Chuyện này ít nhiều tương tự như cầm cuốc hay cầm cào. Vườn tược có phải cào cỏ nữa không? Nếu có thì tại sao lại dùng tay mà không dùng cào?"
David:"Và sau khi người ta kết thúc chu kỳ hóa thân trên bình diện thể chất?"
Heyoan:"Khi đó sự soi sáng sẽ theo một hướng khác. Chúng mình cũng đang thanh lọc bản thân và chuyển dịc về phía Thượng đế. Có vô số giai đoạn. Bởi vì nếu phải đưa bạn đi từ một mức thực tại sang mức tiếp theo rồi tiếp theo nữa thì sẽ làm cho bạn đi vào không gian vô tận. Lúc này bạn chỉ có thể đi tới một tầm cao nhất định nào thôi, bởi vì khả năng tri giác của bạn chẳng phải là khoảng rộng ấy. Càng được soi sáng bao nhiêu thì tri giác càng mở rộng bấy nhiêu. Rõ ràng là không có kết thúc cho vấn đề này. Việc chữa trị ở những trình độ cao hơn trở thành sáng tạo.
Thực tại thể chất của bạn lúc này đang ở trạng thái chuyển tiếp sang giai đoạn kế cận, tại đó việc cải biến sẽ không còn tập trung vào đau khổ nữa. Trong tương lai cải biến và chữa trị sẽ hoàn thiện hoạt động của con người, hoàn thiện âm nhạc và nghệ thuật theo hướng sáng tạo. Chữa trị trở thành sáng tạo khi con người chuyển dịch vào ánh sáng và tiến hành nó trong đó. Bóng tối rạng dần và quá trình cải biến trở thành quá trình sáng tạo hơn là quá trình chữa trị".
Chương 26

SỨC KHỎE, THÁCH THỨC ĐỂ TRỞ THÀNH CHÍNH MÌNH
 Chương này tập trung vào những đặc điểm của tự chăm sóc và tự chữa trị.
Điều quan trọng nhất để nhận biết về sức khỏe của bạn là phương thức giữ gìn nó. Theo tôi, các nguyên tắc quan trọng nhất để giữ gìn sức khỏe của bạn như sau:
1. Duy trì sự liên kết sâu sắc với bản thân và với mục đích của bạn trong cuộc đời này, ở cả mức cá nhân và mức trần gian. Điều đó có nghĩa là yêu thương bản thân và tôn trọng bản thân (các chương 3 và 26).
2. Nhận biết rằng sức khỏe và chữa trị có ý nghĩa đối với bạn và dành cho bạn (các chương 14, 15 và 16).
3. Chú trọng đến bản thân và chăm sóc bản thân. Điều đó có nghĩa là lắng nghe các hướng đạo bên trong bảo cho biết ngay khi bạn vừa mới bị mất cân bằng tại nơi nào đó và làm theo hướng dẫn này (các chương 1, 3, 17 và 19).
Tự chăm sóc
Để tự chăm sóc được tốt, bạn phải làm một số việc hằng ngày bao gồm thiền định, tập luyện, ăn uống tốt, vệ sinh tốt, nghỉ ngơi đúng mức khi cần, y phục thích hợp, nơi ăn ở, giải trí, thách thức riêng tư, chuyện chăn gối và bằng hữu. Hãy hòa trộn những điều này với niềm yêu thương rất mực và rồi bạn sẽ được thưởng công. Các nhu cầu riêng của bạn sẽ đổi khác sau nhiều tuần lễ, nhiều năm tháng. Hãy linh hoạt. Điều thích hợp trong thời gian này có thể không thích hợp vào thời gian khác. Tốt nhất là được bảo cho biết là bạn cần chế độ nào cho riêng mình, đối với bạn điều quan trọng nhất là xác định được một chế độ cho bản thân. Tất cả tính chất của chữa trị và sức khỏe tốt là ở chỗ có trách nhiệm với chính mình và đưa sức lực trở về với bản thân. Đây là danh mục những lời khuyên về tự chăm sóc và các bài tập chữa trị tìm thấy trong cuốn sách này. Bạn nên nhớ rằng tính đa dạng là gia vị cho cuộc đời và sự phát triển cá nhân gia tăng theo sự biến đổi.
1. Thiền định (các chương 3, 17, 19 và 20). Thiền định mà tôi ưa thích là thiền định do Emmanuel đưa ra trong một cuộc hội thảo mà Path, Emmanuel, Heyoan và tôi tổ chức. Tôi gọi nó là thiền định tương lai/quá khứ.
Bạn hãy ngồi thoải mái, giữ thẳng lưng thì hay hơn. Chú ý đến thở. Hít vào và thở ra. Mỗi lần hít vào là hít vào tương lai cùng mọi khả năng mạnh mẽ của nó. Khi thở ra là thở ra quá khứ cùng mọi thứ đi kèm. Bạn chỉ đơn giản hít vào tương lai và thở ra quá khứ. Bởi vì cái bạn hít vào là tương lai và cái bạn thở ra là quá khứ. Hãy để cho quá khứ đi qua. Hít vào tương lai cùng những gì bạn mong ước sáng tạo. Thở ra quá khứ cùng tất cả những mặt hạn chế giả tạo mà bạn đặt lên cho bản thân. Không phải bất cứ cái gì của tương lai cũng vừa ý quá khứ. Hãy để cho quá khứ đi qua. Bạn hãy tiếp tục hít vào tương lai và thở ra quá khứ. Hãy mường tượng tất cả quá khứ của bạn đang đi ra sau lưng và tương lai đang đi đến với bạn. Hãy mường tượng các cuộc đời trước đây của bạn đang trôi qua sau lưng và các cuộc đời sau này của bạn đang chảy về phía bạn. Hãy hít vào tương lai và thở ra quá khứ. Hãy theo dõi dòng chảy của thời gian và hãy mường tượng bản thân mình như là điểm trung tâm của ý thức. Bạn là điểm trung tâm của ý thức và trải nghiệm chuyển động bên cạnh bạn. Bạn ngồi trong trung tâm của thực tại. Cái tôi này của bạn không thay đổi. Bạn tồn tại ngoài các đường biên giới của thời gian. Bấy giờ có một khoảng tạm nghỉ, giữa thì hít vào tương lai và thì thở ra quá khứ. Khoảng tạm nghỉ thở đó chính là lúc bạn lách mình vào hiện tại vĩnh hằng.
2. Các bài tập thể dục (chương 21). Cộng thêm các bài tập này còn có những bài tập aerobic, nautilus, yoga và các môn võ nghệ do nhiều trung tâm phù hợp khắp nước đề xuất. Bạn có thích bơi hoặc cưỡi ngựa không? Cái gì bạn thích nhất thì hãy làm cái đó.
3. Ăn uống tốt. Vấn đề này chưa được đề cập nhiều trong cuốn sách. Có nhiều chế độ ăn thích hợp được liệt kê trong sách nói về ăn uống bày bán tại các hiệu sách. Tôi giới thiệu một chế độ ăn tuân thủ nhiều quy tắc của các trường phái rèn luyện để sống lâu. Rất ít thịt, thức ăn hữu cơ nếu bạn muốn. Tôi đặc biệt không khuyên bạn ăn thịt đỏ (như thịt bò, thịt cừu...: Ngược lại là thịt trắng như thịt gà chẳng hạn - ND). Ăn nhiều thức ăn hạt để có đủ chất lượng, rau, các món rau sống trộn giấm và một số loại quả. Mùa nào dùng thức nấy. Tùy theo mùa, chế độ ăn mùa đông thiên về rau củ và mùa hè thiên về rau xanh cùng hoa quả. Thức ăn hạt thì cần ăn quanh năm.
Hãy cẩn thận với các vitamin mà bạn sử dụng. Nhiều người có những phản ứng tiêu cực rất mạnh đối với một số vitamin sử dụng hằng ngày nhưng họ không biết điều đó. Nếu bạn đang tiến hành thao tác chữa trị, bạn sẽ phải bổ sung vào chế độ ăn của mình các chất có nhiều khoáng/ nhiều vitamin và dùng nhiều calcium, kalium, magnesium và vitamin C. Có thể bạn cũng cần một số vitamin B. Tôi chủ tâm có thái độ mập mờ về điều này bởi vì nhu cầu của từng người khác nhau. Bạn thường biết mình phải dùng cái gì, cần bao nhiêu, dùng vào lúc nào và trong bao lâu.
Hãy chú ý đến thức ăn của bạn khi ngồi vào bữa. Hãy làm cho các dĩa món ăn trông hấp dẫn. Hãy nhận thức thực phẩm đang đi vào thân thể bạn để dinh dưỡng bạn, cho bạn năng lượng và làm cho các tế bào của bạn phát triển. Hãy nhai nó, nếm nó và tốt hơn hết là tận hưởng nó bởi vì thực phẩm bắt nguồn từ địa cầu phong phú.
Đôi lúc bạn cũng nên thử theo dõi thức ăn đi trong thân thể mình mỗi khi nuốt nó.
Hãy chú ý đến một trung tâm thần kinh nằm trong cấu tạo dưới dồi của bạn, vừa là cơ cấu qua đó thân thể bạn chỉ cho các chồi vi giác biết cái mà nó cần (đó là appestat, được coi như một trung tâm điều hòa sự ngon miệng khi ăn - ND). Điều này khác với thèm khát. Bạn thèm khát cái gì? Thường thì cái mà bạn thèm khác là cái gây dị ứng cho bạn. Đừng ăn cái đó. Sau từ ba đến mười ngày sẽ hết thèm khát. Hãy cung cấp cho thân thể bạn cái nó cần. Hãy lắng nghe các thông điệp của nó. Tất nhiên nếu lúc nào bạn cũng thèm khát một thứ thì đấy là có điều gì không ổn. Nếu bạn luôn muốn ăn đồ ngọt thì hãy tìm xem tại sao. Có thể là bạn đã không nuôi dưỡng bản thân một cách đúng mức và thân thể bạn bù đắp vào chỗ đó bằng cách thèm khát loại năng lượng tỏa nhanh.
Chắc bạn biết rằng nhiều chất phụ gia dùng bảo quản thực phẩm là rất không có lợi cho bạn. Phần lớn thức ăn của chúng ta cũng chứa những lượng nhỏ các chất độc từ thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, phân bón và hóa chất gặp trong môi sinh. Cách xử lý tốt nhất đối với điều này là chỉ dùng những thực được bón bằng chất hữu cơ. Đừng mua những thức ăn được bảo quản bằng các chất ngừa phân hủy. Vâng, thức ăn hữu cơ nấu lâu hơn và giá đắt hơn, nhưng về lâu dài bạn sẽ khỏi phải tốn nhiều tiền thuốc. Chỉ ăn trứng có thụ tinh.
Nếu bạn không tìm được rau bón bằng chất hữu cơ và trứng tại nơi bạn ở thì bạn có thể loại bỏ một số tác động gây độc bằng cách ngâm vào chất clorox. Khi bạn từ cửa hàng tạp hóa về nhà, bạn chỉ việc đơn giản cho nước lã vào đầy thùng rửa bát, cho vào đó 1/4 cốc chất clorox rồi ngâm toàn bộ sản phẩm tươi và trứng vào đó trong 20 phút. Rửa toàn bộ, giũ sạch bùn đất và đem cất giữ thực phẩm. Bạn cũng nên sử dụng các chất siêu tẩy, đặc biệt cho bát dĩa, để đảm bảo không còn cặn bột giặt ăn vào có thể làm suy sụp sức chống đỡ trong hệ tiêu hóa.
Hãy nhớ rằng thức ăn càng tươi thì càng lành mạnh và càng cung cấp cho bạn được nhiều năng lượng sống mà nó có.
4. Vệ sinh tốt. Làm cho thân thể sạch sẽ, chăm sóc làn da, hàm răng và mái tóc là rất quan trọng. Trong việc làm sạch thân thể, bạn hãy sử dụng những xà bông hoặc các chất làm sạch da khác đã được cân bằng về pH acid/kiềm cho làn da của mình. Da có một áo khoác bằng acid tự nhiên ngăn ngừa nhiễm khuẩn. Nếu bạn tác động chống lại sự bảo vệ đó bằng cách sử dụng những xà bông hay kem thoa mặt có tính kiềm thì đúng là bạn sẽ tác động chống lại thân thể bạn. Hãy sử dụng một bàn chải riêng cho da bạn khi tắm. Việc này sẽ giúp lấy bỏ lớp da chết cũ mà thân thể bạn đều đặn lột ra nhường chỗ cho các tế bào mới sinh trưởng. Hãy sử dụng một nước thơm đã được cân bằng pH nếu bạn sống ở nơi khí hậu khô. Chất này giúp duy trì độ ẩm trong da bạn. Bất cứ lúc nào bạn cũng dùng những loại xà bông và mỹ phẩm tự nhiên, không gây dị ứng và không độc.
Với mái tóc của bạn cũng dùng như vậy. Chớ dùng thuốc nhuộm tóc vì thuốc để lại cặn đặc trên tóc. Phải đảm bảo nước gội đầu đã được cân bằng pH và không độc cho bạn.
Hãy đảm bảo nhìn qua bộ răng mỗi ngày một lần. Chải răng ít nhất hai lần một ngày. Nếu bạn có dùng kẹo cao su thì dùng một hỗn hợp 1 phần muối trong 8 phần baking soda để chải răng mỗi ngày một lần
5. Nghỉ ngơi. Cần nghỉ ngơi bao nhiêu lâu lại vẫn là chuyện riêng tư. Bạn là người làm việc ban đêm hay làm việc ban ngày? Hãy lắng nghe thân thể bạn. Lúc nào thì thân thể bạn cần nghỉ? Nó cần một giấc đẫy trong sáu đến chín tiếng đồng hồ, hay thích ngủ ít về đêm còn ban ngày chỉ ngủ chợp? Lúc nào bạn mệt thì cứ nghỉ, bất kể vào thời điểm nào trong ngày. Bạn sẽ thấy rằng nếu nằm xuống ngay thì chỉ cần khoảng nửa giờ là bạn lấy lại được năng lượng. Hãy lắng nghe những nhu cầu của thân thể bạn. Nếu bạn không có được nửa giờ thì hãy cố gắng dành ra mười lăm phút. Tôi đánh cuộc rằng bạn có thể dành ra được ngần ấy trong cả một ngày bận rộn.
6. Trang phục. Tôi đã phát hiện ra rằng nhiều loại vải tổng hợp gây nhiễu cho dòng chảy năng lượng tự nhiên của hào quang. Đó là cá chất acrylic, nhiều  polyester và ni lông. Bít tất (vớ) ni lông gây trở ngại cho dòng chảy năng lượng lên xuống trong chi dưới và theo ý kiến tôi, có liên quan đến nhiều bệnh ở nữ giới trong những xã hội hiện đại của chúng ta hiện nay. Tôi khuyên bạn chỉ đi bít tất ni lông khi thật sự cần. Hãy tìm những hàng thay thế. Tốt nhất là tránh loại hàng dệt có chứa aldehyde/formaldehyde và chế tạo từ các sản phẩm phụ của dầu mỏ, đặc biệt khi bạn nghĩ là mình có thể bị mẫn cảm.
Các loại sợi tự nhiên có tác động tích cực rất mạnh đối với hào quang. Sợi tự nhiên tăng cường và giữ vững hào quang. Sợi bông (cotton), tơ lụa và lông cừu là tốt nhất. Hàng dệt pha cũng rất tốt. Hàng dệt pha 50% sợi bông thì tuyệt. Một vài loại tổng hợp cũng có vẻ tốt. Thân thể và trường năng lượng của tôi ưa hàng tơ nhân tạo và một vài thứ làm bằng orlon, như bít tất ngắn cổ chẳng hạn.
Buổi sáng, khi bạn nhìn vào tủ mà thấy "không có gì để mặc" thì có thể vì trong tủ không có màu áo quần mà bạn cần. Hôm nay bạn cần màu gì? Có thể là hào quang của bạn yếu về một màu nào đó và bạn cần tiếp sinh lực cho bản thân bằng trang phục có màu này. Hãy làm phong phú tủ quần áo của bạn. Hãy làm phong phú nó bằng nhiều loại hàng dệt khác nhau. Có nhiều thứ để tùy theo cảm giác của bạn ngày hôm đó mà chọn lựa.
Lối trang phục của bạn hợp với bạn, hay bạn ăn vận là để cho những người khác? Hãy chắc chắn một điều là trang phục của bạn biểu thị con người thực của bạn.
7. Nơi ở. Bạn có đủ khoảng không gian và lượng ánh sáng mà bạn cần không? Nơi ở có tiện lợi cho bạn không? Nếu bạn có thì giờ chăm sóc chúng thì các cây trồng cung cấp thêm một năng lượng chữa trị tốt cho không gian của bạn. Nơi ở của bạn có đủ những màu sắc bạn cần không? Không khí bạn hít thở có trong sạch không? Nếu không, bạn hãy sắm một thiết bị ion hóa/ làm lắng bụi không khí. Nếu nơi ở hoặc nơi làm việc của bạn thắp sáng bằng đèn huỳnh quang thì hãy tống khứ nó đi mà thay bằng đèn sợi tóc.
8. Niềm vui. Nếu bạn không cho bản thân mình đủ thời gian để hưởng thụ niềm vui, thì hãy tính thời gian đó như chính thời gian bạn làm việc. Niềm vui đúng là quan trọng ngang công việc. Hãy làm những việc mà bạn luôn muốn làm để được vui thích. Lúc này là thời gian đó. Hãy cười cợt thường xuyên, hãy khám phá đứa trẻ bên trong bạn và hãy khoái chí vào bất cứ lúc nào.
9. Thách thức cá nhân. Ai cũng có những việc mà họ luôn muốn làm nhưng lại để sang năm sau hoặc cho rằng họ không bao giờ có thể làm được. Ngộ nhận. Năm này là năm đó. Dù là chuyến du ngoạn tìm niềm vui, cuộc thách thức sáng tạo hay chuyện thay đổi nghề nghiệp, thực ra là bạn cần dành cho bản thân một dịp may ít nhất cũng được thử làm việc đó. Có một loại công việc nào đó mà bạn luôn muốn làm? Hãy ghi nó ra. Bạn hãy xem nó có nội dung gì và hãy vạch kế hoạch để xử lý khát vọng nội tâm này. Hãy nhớ rằng khát vọng nội tâm sâu lắng nhất của bạn, cái mà bạn muốn làm hơn tất cả mọi thứ, chính là điều mà bạn đã đi vào cuộc đời này để làm. . Lúc này hãy khởi sự đi, khám phá nội dung của nó và bắt tay vào việc. Thậm chí nếu phải mất nhiều thời gian để đạt tới, nếu bạn không bắt đầu cuộc hành trình thì bạn sẽ không đi đến đích. Nếu bạn khởi hành và tiếp tục bước tới, bạn sẽ đạt được. Hướng đạo bên trong bạn sẽ bảo lãnh điều này.
10. Chuyện chăn gối và bằng hữu. Chuyện chăn gối và bằng hữu rất cần thiết đối với tất cả chúng ta. Hãy tìm ra điều có ý nghĩa đối với bạn và hãy tạo ra nó trong cuộc đời của bạn. Hãy xây dựng những luật lệ của chính mình về chuyện này. Nếu bạn yêu thích người nào đó nhưng lại không làm gì cả vì quá nhút nhát, thì hãy thử vận may. Hãy bảo người đó là bạn yêu thích họ và muốn kết thân với họ. Bạn sẽ ngạc nhiên thấy việc đó tác động tốt như thế nào. Nếu không thành công, bạn hãy thử với người khác.
11. Tự chăm sóc khi tai nạn và đau yếu. Trước khi cần đến người nào đó, bạn hãy tìm một nhà chuyên nghiệp chăm sóc sức khỏe trong vùng theo sự chọn lựa của bạn. Hiện có rất nhiều và tốt nhất là bạn biết được mình làm gì và sẽ đi đến nơi nào trước khi phải làm việc này. Hãy chọn một thầy thuốc mà bạn có quan hệ tốt và thực sự tin tưởng. Có các nhà chữa trị, vi lượng đồng căn, thiên nhiên liệu pháp, châm cứu, đánh bão lưng, xoa bóp, những người làm vận động liệu pháp, các nhà dinh dưỡng v.v...
Với bản thân bạn, tôi gợi ý một vài lớp học về chăm sóc tại nhà hay chăm sóc của gia đình. Vi lượng đồng căn là phương thức tuyệt diệu đối với người nào phải chăm nom thân nhân để hồi phục sức khỏe cho họ. Tôi đã nhiều năm sử dụng phương thức này và thấy cụ thể mỗi khi tôi gặp phải những vấn đề với con cái mình thì một phương vi lượng đồng căn thích đáng phối hợp với thao tác bàn tay đơn giản cũng làm nên chuyện. Tôi đã chữa thành công bằng vi lượng đồng căn mọi vấn đề diễn hình của trẻ em từ bệnh viêm họng do tụ cầu đến tật gặm móng tay.
12. Các kỹ thuật chữa trị đơn giản mà tôi khuyên bạn sử dụng cho gia đình là: Bắt đầu bằng thanh nạp (chương 22). Ai cũng có thể học được kỹ thuật này. Sau đó, khi đã đi qua tất cả các luân xa, đặt bàn tay trực tiếp lên chỗ đau. Ngồi trong trạng thái yêu thương đối với người đó. Điều này sẽ làm cho cả hai bạn cảm thấy kỳ diệu.
Nếu vùng đau có vẻ bị tắc nghẽn năng lượng, có thể bạn muốn lôi một ít cái đó ra ngoài. Bạn hãy đơn giản hình dung các ngón tay mình dài thêm ra 3 in và trở nên đầy ánh sáng xanh. Bấy giờ bạn hãy đi vào trong chỗ tắc nghẽn đó và xúc từng nắm mà đưa ra không khí. Hãy để cho nó chuyển sang ánh sáng trắng. Vì các ngón tay của bạn lúc này dài hơn bình thường 3 in, nên bạn có thể đi thẳng qua da sâu tới 3 in vào trong thân thể. Hãy tiến lên và thử xem. Có tác động tốt đấy và rất dễ.
Hoàn tất việc chữa trị bằng cách giữ hai tay trên đầu vợ/ chồng/ con gái/con trai của bạn. Sau đó vài ba phút, bạn hãy dùng các ngón tay dài của mình mà chải cho toàn bộ trường hào quang. Hãy vẽ ra những nét dài từ đầu cho đến các ngón chân trong khi tay bạn giữ cách mặt da chừng 6 in. Bao quát toàn bộ thân thể về mọi phía.
Kết thúc buổi chữa bằng cách giữ hai tay bạn một lúc trong dòng nước chảy. Dùng nước có nhiệt độ dễ chịu.
Nếu bạn là người bị ốm hoặc có vết thương, hãy thực hiện điều nói trên cho bản thân được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Hãy tìm một người bạn giúp cho việc đó. Nếu bạn bị ốm thì ban đêm trước khi đi ngủ bạn hãy đặt hai tay lên vùng có vấn đề. Hãy gửi cho nó yêu thương và năng lượng. Hãy mường tượng là bạn khỏe mạnh và cân bằng. Hãy hỏi thân thể bạn về nội dung thông điệp đang đến với bạn. Bạn đã từng không lắng nghe bản thân tại đâu và như thế nào? Ý nghĩa của vết thương hay căn bệnh này đối với bạn, cả ở mức cá nhân lẫn mức nhiệm vụ cuộc đời? Và quan trọng hơn hết là hãy yêu thương bản thân, chấp nhận bản thân. Nếu bạn mắc một bệnh nặng thì đừng phê phán bản thân về chuyện đó. Hãy yêu thương bản thân. Bạn có can đảm làm cho thông điệp đủ mạnh để nghe được. Bạn đã quyết định đương đầu với bất cứ cái gì mà bạn cần đương đầu nhằm học hỏi cái mà bạn muốn biết. Đó là một hành động rất dũng cảm. Hãy quý trọng bản thân bạn về điều đó. Hãy yêu thương bản thân. Yêu thương bản thân. Bạn là một phần của Siêu phàm. Bạn làm thành một với Thượng đế. Đây là hai kiểu thiền định tự chữa trị của Heyoan, sẽ giúp đỡ cho bạn:
Thiền định để tự chữa trị của Heyoan
1. "Hãy chụp quét thân thể bạn bằng bất kỳ cách nào bạn thích: Nhìn bên trong, trực giác, cảm nhận. "Với sự giúp đỡ của các hướng đạo của mình nếu như bạn muốn, bạn hãy phát hiện khu vực thân thể mà bạn quan tâm nhất.
"nếu bạn không tìm ra khu vực có vấn đề, bạn có thể tập trung vào điều gì đó xảy ra trong đời bạn đúng vào lúc bạn quan tâm. Hãy tìm khu vực này trong thân thể hay trong cuộc đời.
2. "Nếu bạn muốn thì hãy cho nó một hình thái, màu sắc, bản chất, dáng vẻ, mật độ. Nó sắc, cùn? Nếu là đau đớn đặc biệt thì nó tồn tại lâu không? Có nhức nhối không? Có nhọn sắc không? Có bị đi bị lại không?
"Tình trạng này trong đời bạn là mới? Cũ? Bạn cảm thấy thế nào khi đối chiếu với nó và phản ứng kinh niên hay quen thuộc của bạn là gì? Hãy lưu ý đến bất kỳ tình huống đặc biệt nào mà chúng ta đang nói tới. Ví dụ: Nếu có đau đớn trong thân thể bạn thì điều gì xảy ra trong tâm trí lúc bạn cảm thấy đau? Tâm trí bạn có đọc và gắn lên cho nó những nhãn hiệu kinh khủng?
"Trong những hoàn cảnh của đời mình, bạn có cảm thấy giận dữ hoặc sợ hãi? Bạn có cảm thấy sợ hãi về điều xảy ra trong thân thể bạn? Và lúc bấy giờ bạn làm gì với phản ứng này? Phản ứng quen thuộc đã (theo một nghĩa nào đó) không đưa bạn đến một kết quả nào cả. Bạn biết là phản ứng quen thuộc này không có tác dụng, bởi vì đau đớn vẫn còn đó. Đặc biệt nếu đau đớn là mãn tính thì phản ứng quen thuộc này trước đây đã không có tác dụng. Thông điệp (bài học nếu bạn muốn nói thế) đã không được thông qua. Như vậy tôi dám đánh bạo mà nói rằng, bạn thân mến ơi, bất cứ phản ứng đó là cái gì chăng nữa thì nó vẫn hoàn toàn sai trái bởi vì nó không giải quyết được tình thế.
"Hãy nhìn vào cuộc đời và thân thể của bạn - bạn đã nhào nặn nó thành một lớp bọc để học hỏi trong đó và mọi ốm yếu, đau đớn hay bệnh tật đều là thông điệp, thông điệp đến với bạn để dạy cho bạn một bài học."
3. "Do đó, câu hỏi tiếp theo tôi đặt cho bạn là tại sao bạn lại tạo ra đau đớn nhường ấy trong thân thể mình? Tại sao bạn lại tạo ra trong đời mình một tình huống như vậy? Điều mà bạn có thể học hỏi được từ cái đó là gì? Cái tình huống hay đau đớn nói đi nói lại với bạn cho tới chừng nào bạn hiểu ra hoặc nhận được, nó là cái gì vậy? Cho tới khi bạn học được bài học đó, bạn sẽ tiếp tục tạo ra tình huống, bởi vì bạn là người thầy tốt nhất bạn đã phác họa tốt các bài học của mình và bạn sẽ không tự đưa mình vào một bài học khác cho đến khi học được bài học này."
"Nếu bạn đã tìm ra được vị trí đó trong thân thể mình, tôi khuyên bạn hãy đặt một tay hay cả hai tay lên đó. Hãy để cho ý thức vĩ đại của bạn bắt đầu hòa vào vị trí đó trong thân thể bạn. Và khi thực hiện điều này, nếu bạn chưa khám phá ra nó thì bạn hãy tìm bản chất của lo sợ. Khi bạn đã cảm nhận được tinh túy của bản chất lo sợ đó, tôi khuyên bạn cảm nhận nó bằng yêu thương. Loại yêu thương nào là phù hợp nhất với lo sợ này? Hãy làm như vậy đối với bất cứ khu vực nào của thân thể bạn. Mọi bệnh tật mà bạn có đều là kết quả trực tiếp và mọi trải nghiệm tiêu cực trong đời bạn đều là kết quả trực tiếp của việc bạn đã không yêu thương bản thân mình một cách đầy đủ - bạn đã không trọn vẹn đi theo cái mà bạn muốn làm. Bạn đã không chú ý lắng nghe tiếng nói bên trong đó như thế nào? Bạn đã không để cho bản thân được làm đầy đủ con người thực của bạn như thế nào?Bất cứ bệnh tật nào cũng là thông điệp trực tiếp đến với bạn, mách bảo rằng bạn đã không yêu thương con người thực của mình, đã không yêu dấu bản thân để được làm con người thực của mình như thế nào. Đó là nền tảng của mọi chữa trị .
4. "Một đầu mối khác: Bài học này không hề nói đến điều gì đó mà bạn đã làm sai hay điều gì đó xấu xa về bạn."
5. "Và như vậy, lúc tìm ra câu trả lời, chắc chắn nhất là bạn sẽ lập tức phát hiện được đau đớn và lo sợ khi bạn ngăn chặn bản thân không cho làm cái mà bạn thực sự muốn làm. Và tới điểm đó, điều phải lựa chọn là đối đầu với lo sợ và để cho bản thân mình cảm nhận nó và hoạt động cùng với nó trong đời bạn. Vì bất cứ lúc nào có sợ hãi là lúc đó đã thiếu vắng yêu thương, vì sợ hãi đối lập với yêu thương. Vì thế hễ nơi nào có sợ hãi là nơi đó bạn có thể cầm chắc rằng mình không hiện hữu trong chân lý và chắc chắn nhất là điều mà bạn sợ hãi không phải có thực mà chỉ là ảo giác. Do chỗ bạn không tập trung, bạn không nằm trong sự toàn vẹn hiện hữu của mình khi bạn lo sợ. Khi bạn có gan bước vào trong lo sợ đó là bạn bắt đầu quá trình chữa trị trên một mức mới.
"Bài làm ở nhà trước khi đi ngủ:
1. Hãy liệt kê những lo sợ của bạn. Bạn lo sợ cái gì? Có thể nó sẽ tập trung lên thân thể bạn. Có thể nó sẽ tập trung lên tình trạng cuộc sống của bạn. Có thể chúng là những lo sợ chung.
2. Hãy liên kết lo sợ đó với những hoàn cảnh trong đời bạn. Lo sợ luôn liên quan trực tiếp với điều gì đó bạn không làm nhưng lại muốn làm. Nó ngăng bạn khỏi sự lớn lao của mình và cũng là con đường đi đến nó.
Hãy lập ban liệt kê nói lên:
-Các lo sợ
-Hoàn cảnh cuộc đời
-Bạn đã không yêu thương bản thân như thế nào. Bạn muốn trở thành gì và như thế nào?
"Tất cả điều này phải thích ứng với hào quang như thế nào? Có thể nhìn thấy nó trong hào quang. Có hình thái và bản chất cho những điều này. Khi bạn khai mở các tri giác của mình thành rộng hơn, bạn sẽ có được khả năng nhìn vào mọi người và thấy họ đã không yêu thương bản thân như thế nào. Và bấy giờ, trong cương vị thầy chữa, bạn sẽ là mối liên lạc để giúp họ nhớ lại con người thực của họ. Trong cương vị thầy chữa, bạn trở thành yêu thương."
Thiền định để thanh toán những hạn chế bản thân
"Đây là kiểu thiền định thích hợp cho những ai tự thấy bản thân bị giam hãm trong những khu vực của cuộc đời mình mà không muốn bị giam hãm như thế. Kiểu thiền định này thích hợp cho khám phá bản thân, thích hợp cho thực hành chữa trị, bởi vì bệnh tật không phải cái gì khác mà là hậu quả của việc tự kìm hãm mình trong những xác định hạn hẹp về bản thân. Là thầy chữa, trước hết bạn phải có khả năng hiểu được quá trình bên trong bản thân để có thể cảm nhận nó nơi người khác - nhằm giúp họ xác định nó và giúp họ giải tỏa các ranh giới.
Tất cả những điều này đều có các hình thái trong trường hào quang. Chúng là năng lượng và ý thức đang hạn chế bạn. Và vì vậy khi tiến hành thao tác lên hình thái năng lượng vốn là bản chất của hạn chế đó.
1. Bạn hãy tự nâng mình lên trạng thái bành trướng.
2. Hãy buông câu hỏi: Mình là ai?
3. Khi bạn thấy được câu trả lời thì hãy tìm kiếm một hạn chế mà bạn đã đặt lên bản thân bằng một xác định đơn giản về con người thực của mình. Khi bạn thấy được hạn chế đó thì hãy biết rằng nó là ranh giới mà bạn đã đặt lên bản thân.
4. Hãy đuổi hạn chế đó ra khỏi ranh giới và do vậy mà ranh giới mở rộng thêm.
5. Lại buông câu hỏi: Mình là ai? Bất kể câu trả lời như thế nào, nó cũng sẽ đưa đến cho bạn một xác định khác về bản thân.
6. Hãy tách Tinh chất ra khỏi xác định hạn hẹp.
7. Hãy đuổi hạn chế đó ra khỏi ranh giới, hãy mở rộng thêm nữa.
8. Lại buông câu hỏi v.v....
"Hãy thực hành kiểu thiền định này đều đặn suốt trong tuần tiếp theo. Không, tôi sẽ không xác định Tinh chất. Nó là điều mà bạn sẽ xác định trong bài tập."
Nếu bạn muốn trở thành thầy chữa, bạn có thể thực hiện ước mơ đó. Thách thức đầu tiên của bạn là tự chữa trị. Hãy tập trung vào việc đó, rồi tập trung vào việc tìm các phương cách để giúp những người khác tự chữa trị. Điều này sẽ dẫn tới sự phát triển của bạn trên cương vị thầy chữa. Trong chương tới tôi sẽ nói về vấn đề con đường đó có thể giống cái gì.
Điểm lại Chương 26
Để làm động não.

1. Hãy phân loại bản thân theo một hệ thống chia độ có 1-10 trên mười một điểm tự chăm sóc được liệt kê trong chương này, bắt đầu từ (1) Thiền định.
2. Đối với những điểm mà bạn đã cho bản thân số điểm thấp, hãy phát hiện phản ứng của bản ngã bậc thấp hay bản ngã bóng nó ngăn trở bạn. Niềm tin và kết luận hạn hẹp mà phản ứng này dựa vào là gì?
3. Hãy liên hệ điều đó vào một luân xa hay nhiều luân xa mất cân bằng.
4. Hãy thực hiện thiền định để tự chữa trị của Heyoan.
5. Hãy thực hiện thiền định để thanh toán những hạn chế bản thân của Heyoan. 
Chương 27 (chương kết)

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THẦY CHỮA 
Trở thành thầy chữa là một quá trình rất cá thể và rất riêng tư. Không có những quy luật cố định về cung cách nảy sinh của nó. Cuộc đời của từng người là duy nhất. Không ai có thể ban cho ai nghiệp vụ chữa trị. Nó là điều gì đó phát triển từ bên trong con người. Có nhiều bài giảng phải học, nhiều chất liệu kỹ thuật phải nghiên cứu và nhiều trường phái tư tưởng khác nhau như vẫn thực sự xảy ra trong quá trình chữa trị. Một số trường phái không hề gọi các thực hành của họ là tâm linh.
Con đường đi vào nghiệp vụ chữa trị của tôi được hướng dẫn theo phương thức tâm linh là phương thức tự nhiên nhất đối với tôi. Còn đối với bạn thì phương thức nào là tự nhiên nhất? Bạn hãy đi con đường của chính mình, chứ không phải theo lối mòn đã cấu tạo hoàn chỉnh. Bạn có thể lấy cái mà bạn chọn lựa được từ lối mòn hoàn chỉnh này và dùng nó để hỗ trợ và giúp bạn sáng tạo ra những ý tưởng mới của mình. Hướng đạo Heyoan của tôi đã có bình luận sau đây về việc trở thành thầy chữa.
Hiến dâng
"Trở thành thầy chữa có nghĩa là hiến dâng. Không phải hiến dâng cho bất cứ thực hành tâm linh đặc biệt nào, tôn giáo nào hay một bộ quy tắc cứng nhắc nào, mà hiến dâng cho con đường riêng của bạn đi tới chân lý và yêu thương. Điều này có nghĩa là thực hành của bạn về chân lý và yêu thương đó có thể sẽ thay đổi khi bạn đi qua cuộc đời của mình. Có nhiều con đường dẫn tới "Thiên đường", tôi dám chắc là cũng nhiều như số linh hồn trở lại nhà. Nếu ta phải tìm từ đâu chí cuối lịch sử con người, thì ta sẽ thấy nhiều người thực hiện cuộc hành trình trước ta và đã tìm thấy sự soi sáng. Nhiều phương thức đặc biệt thực hiện hành trình này của họ được loài người sớm biết tới tại thời điểm của lịch sử. Một số phương thức đang được tìm lại; một số khác vẫn bị mất. Nhưng không việc gì, do chỗ các phương thức mới tiếp tục được hình thành trong sâu thẳm của linh hồn con người, từ bất cứ nơi nào mà mỗi linh hồn phải tìm kiếm con đường trở về vào bất cứ lúc nào. Bạn thân mến, bạn thấy rằng đây là quá trình ấy. Đó là quá trình luôn đổi mới của lực sáng tạo tuôn ra từ nội tâm bạn và bất kỳ ai. Đó là tất cả ý nghĩa của sự trở về. Khi bạn học tuôn chảy một cách hoàn toàn tự nhiên mà không gò ép cùng với chuyển đông sáng tạo nội tâm đó, thì bấy giờ bạn đã trở về. Trở về có nghĩa là như vậy.
Thử thách
Bạn vừa quyết định hiến dâng mình cho con đường chân lý của bạn và làm cho nó trở thành điều ưu tiên chủ yếu của đời bạn thì bạn đã nhận thức được một quá trình tổng thể xảy ra trong đời bạn. Quá trình này của cuộc đời đưa bạn đi qua những phong cảnh nội tâm nó làm thay đổi bản chất thực tại riêng của bạn. Bạn bắt đầu nhìn thấy những mối quan hệ nhân quả giữa thực tại nội tâm riêng của bạn và thế giới "bên ngoài".
Tôi đã được dẫn dắt (bởi bản ngã cao cấp và các hướng đạo của tôi) qua từng quá trình tuần tự dành cho việc giúp đỡ tôi học hỏi luật lệ tâm linh. Tôi trải qua những thời gian khá dài tập trung vào và học hỏi về bản chất của tâm lý. Ý chí siêu phàm và yêu thương. Sau thời gian tập trung với một trong các nguyên lý này, tôi cảm thấy như thể tôi đang được thử thách. Tôi liên tiếp phát hiện ra bản thân mình trong những hoàn cảnh trong đó rất khó mà lưu lại viới chân lý, với yêu thương hay thậm chí rất khó có ý tưởng rằng Ý chí siêu phàm có thể như thế nào. Nhiều khi dường như các hướng đạo của tôi, các thiên thần hay Thượng đế đang thử thách tôi, mà tôi thì không thể làm được gì nhiều về vấn đề đó. Cuối cùng tôi thấy rằng các thử thách đó được trù định (được tôi tán đồng hoàn toàn) bởi một ý thức to lớn hơn nhiều so với ý thức của tôi. Tôi làm thành một phần của ý thức to lớn này. Sau rốt, về một nghĩa nào đó, tôi trù định các cuộc thử. "Cái tôi" nhỏ bé của mình thường không muốn làm cái phần đó. Cái phần lịch duyệt hơn của tôi thì biết nhiều hơn.
Nỗi lo sợ của bạn là điều trước tiên mà bạn sẽ đương đầu sau khi ủy thác bản thân cho đường đời của mình.
Xử lý lo sợ
Lo sợ là xúc động phối hợp với trạng thái mất liên kết với thực tại vĩ đại. Lo sợ là xúc động đo phân cách. Lo sợ đối lập với yêu thương vốn được liên kết với sự hòa hợp của mọi vật.
Bài tập phát hiện những lo sợ của bạn
Bạn hãy tự hỏi: Tại thời điểm này của đời ta thì lo sợ tệ hại nhất của ta là gì? Lo sợ đó dựa trên những thừa nhận nào về thực tại? Cái gì là thực sự kinh khủng xung quanh điều xảy ra đó? Bất cứ cái gì mà bạn tìm cách tránh né đều liên quan đến nỗi lo sợ phải cảm nhận các xúc động có dính líu của bạn. Chúng là gì vậy? Sâu bên trong bạn là nơi bạn biết rằng bạn có thể đương đầu và đi qua mọi chuyện.
Nếu bạn nhìn bên trong, bạn sẽ cảm thấy yêu cầu của mình là không phải trải nghiệm bất cứ điều gì mình sợ. Tuy nhiên, nếu bạn cho qua và quy phục Tia sáng siêu phàm của mình thì bạn sẽ thấy chắc hẳn mình cần phải đương đầu với nó. Khi bạn đi qua trải nghiệm lo sợ, thì lo sợ của bạn sẽ biến thành thông cảm yêu thương. Bởi vì như Emmanuel nói:
Vấn đề không phải ở chỗ
phá tan lo sợ
mà là hiểu được bản chất của nó
và nhận ra nó là một lực
yếu kém hơn
sức mạnh của yêu thương.
Nó là ảo giác.
Lo sợ
Chỉ như nhìn vào gương soi
và nhăn mày nhăn mặt
với bản thân mình mà thôi.
Khi nhìn lại bước đường của mình, tôi có thể thấy các mô hình phát triển sáng sủa. Tôi đã từng không biết mô hình vĩ đại khi nó xảy đến. Tôi đã dành phần lớn thời gian vào việc nhận thức các vấn đề trước mắt trong từng lúc.
Chân lý
Khi lần đầu tiên tôi chuyển đến Trung tâm Phoenicia Pathwork và bắt đầu thực hành "thao tác Pathwork" dưới dạng những buổi chữa trị riêng từng người, theo nhóm và như là thành viên của cộng đồng tâm linh, tôi thấy mình tức khắc đương đầu với vấn đề chân lý. Tôi đang nói chuyện chân lý, hay tôi đang thuyết phục bản thân về một thực tại nào đó để mình được thuận tiện? Tôi choáng váng về cung cách mình hợp lý hóa bản thân vào việc tin mọi điều để hữu hiệu hóa ứng xử của mình và giải thích các trải nghiệm khó chịu trong đời mình. Phòng vệ chủ yếu của tôi là đổ lỗi cho người khác. Bạn làm như vậy bao nhiêu lần? Hãy tìm kiếm những phương thức tinh tế chứ không phải những phương thức hiển nhiên.
Dần dần, sau khi xem xét ứng xử của mình, bạn sẽ thấy rằng nhân và quả tác động theo những phương thức rõ ràng hơn nhiều so với điều bạn nghĩ và trên thực tế bạn đang tạo ra những trải nghiệm tiêu cực đó bằng cách này hay cách khác. Đây là chuyện hắc búa phải đương đầu. Bị chìm ngập dưới những tác phẩm đau đớn này, bạn sẽ tìm ra ý đồ sống thực sự cuộc đời mình theo cách đó. Nó được mệnh danh là "ý đồ tiêu cực". Ý đồ tiêu cực của tôi trước đây là căn cứ vào hai điều. Điều thứ nhất là hệ thống niềm tin cho rằng cuộc đời về căn bản là khắc nghiệt, trăm công nghìn việc và đầy rẫy khổ đau. Hệ thống niềm tin này không hề chung cho mọi người, mà rất đặc thù cho từng người.
Bài tập phát hiện các niềm tin tiêu cực của bạn
Chẳng hạn, bạn hãy điền vào những câu sau đây cho bản thân bạn: "Tất cả đàn ông đều .......... Tất cả đàn bà đều............. Trong quan hệ mình sẽ bị tổn thương bằng các phương thức sau .............. Có thể mình sẽ bị ốm hay chết vì .............. Mình sẽ bị xé toạc ra theo những cách sau..............Mình sẽ mất........... nếu mình không............ "Điều thứ hai mà ý đồ với tiêu cực của tôi trước đây căn cứ vào là niềm vui tiêu cực; nghĩa là tôi thực sự thích thú các trải nghiệm tiêu cực.
Đừng tự đánh lừa mình, bằng cách báo trước rằng vấn đề không phải ở chỗ bạn đã tham dự bao nhiêu cuộc hội thảo và thao tác lên ban thân bao nhiêu lần, bạn sẽ thu được lợi ích do chỗ trả lời các câu hỏi này. Tất cả chúng ta đều có các mô hình đó, mặc dù chúng có thể không công khai như trước.
Mỗi người làm việc này ở một vài mức nhân cách của mình. Chẳng hạn, bằng cách đổ lỗi cho người khác về những vấn đề của bạn (mẹ, bố, vợ hoặc chồng), bạn có được niềm vui làm "người tốt" trong khi những người khác là "người xấu". Niềm vui tiêu cực có nhiều biến thái và dạng hình. Bạn có thể thực sự cảm thấy niềm vui khi bị tổn thương, ốm đau hoặc thua cuộc. Phần đông chúng ta lặp lại các mô hình làm nạn nhân bởi vì trong cương vị nạn nhân bao giờ ta cũng thu được lợi ích phụ. Để giải thích tại sao mình không thành công, ta lấy cớ rằng mình là người tốt lẽ ra đã có thể làm được điều đó trên đời nếu người khác không làm hỏng việc. Hãy nghe niềm vui của bạn trong lý do vì sao bạn không thể làm được một việc gì đó. Những lời tuyên bố như "Tôi muốn làm việc này nhưng mẹ/bố/vợ/chồng tôi không cho tôi làm, hoặc lưng tôi quá đau, hoặc tôi không có thì giờ vì phải làm việc quá nhiều". Đó là tất cả những lời bào chữa chứa đựng nhiều niềm vui tiêu cực. Bạn hãy lắng nghe sắp tới bản thân bạn sẽ giải thích tại sao bạn đã không tiến hành một công việc nào đó. Bạn có đứng trong phạm vi chân lý không?
Tại sao, là con người, ta lại ứng xử theo cách này? Ta hãy nhìn vào cội nguồn của niềm vui tiêu cực.
Niềm vui tiêu cực là niềm vui tự nhiên hay niềm vui tích cực bị bóp méo. Niềm vui tiêu cực dựa trên sự phân cách. Niềm vui tích cực dựa trên sự hòa hợp, nó không phân cách bạn khỏi những người khác bằng cách nọ hay cách kia. Niềm vui tích cực đến từ trung tâm hay từ cốt lõi của bạn. Nó tuôn chảy từ sâu thẳm bên trong và mưu cầu sáng tạo. Nó tuôn chảy cùng với vận động và năng lượng vốn rất dễ chịu. Niềm vui tiêu cực được tạo ra khi xung lực sáng tạo cội nguồn từ cốt lõi bị bóp méo hoặc xoắn vặn hay tắc nghẽn một phần theo cách nào đó. Điều này trước tiên xảy ra qua các trải nghiệm của tuổi ấu thơ được kết tinh vào trong nhân cách chúng ta. Chẳng hạn, một em bé với tới cái mỏ đèn đẹp đẽ màu đỏ tươi trên lò bếp. Bà mẹ phát vào tay nó trước khi nó bị bỏng tay. Xung lực niềm vui bị chặn đứng. Em bé khóc. Sự hợp nhất giữa nỗi đau và niềm vui khởi đầu theo một phương thức đơn giản như vậy.
Có vô số trải nghiệm khác giữa tuổi thơ phức tạp hơn nhiều kết hợp trải nghiệm tiêu cực với niềm vui. Ta thường xuyên nghe nói rằng ta không thể làm con người thực của mình, rằng ta không thể để cho sinh lực của mình tuôn chảy. Chúng ta phải chọn lấy niềm vui tiêu cực, bởi vì nó liên kết với xung lực sống cội nguồn. Ta vẫn cảm nhận được xung lực sống đó. Thậm chí nếu niềm vui là tiêu cực thì nó vẫn là cuộc sống; nó vẫn tốt hơn là không vận động và không năng lượng vì như vậy là cái chết. Xung lực niềm vui bị bóp méo của ta trở thành quen thuộc khi ta lớn lên.
Ở một nghĩa nào đó, mỗi lần ta bóp méo xung lực niềm vui của mình và không để cho bản thân được làm con người thực của mình thì lần đó ta chết đi một ít. Quá trình thanh khiết hóa sau đó là khôi phục lại bản thân từ từng cái chết nho nhỏ ấy và lấy lại niềm vui tuôn chảy tràn trề của năng lượng, vận động và ý thức nó tăng thêm lực sáng tạo của ta.
Tôi trải qua hai năm đầu sống tại Trung tâm Phoenicia Pathwork sống trung thực hết mức với bản thân, phát hiện và phân cách niềm vui tiêu cực khỏi niềm vui tích cực, phát hiện chính cái cung cách và lý do của việc tạo trải nghiệm tiêu cực trong đời mình. Tôi tìm những niềm tin không đúng và những quan niệm sai trái mà hành động của mình dựa vào. Việc thực hiện điều đó sẽ thay đổi hoàn toàn viễn tượng của bạn về thực tại, cũng như đối với tôi trước đây. Nếu cuối cùng bạn chịu trách nhiệm về việc tạo ra các trải nghiệm tích cực. Nó sẽ có tác động. Nó đã tác động đến tôi và những vấn đề cũ bắt đầu tan biến.
Ý chí Siêu phàm
Sau hai năm tập trung phần lớn vào việc sống bằng chân lý càng nhiều càng tốt, tôi nhận thức ra rằng mình có trục trặc với ý chí của mình. Phương thức tôi sử dụng ý chí của mình đã tạo ra những vấn đề trong đời tôi. Phương thức đó không ổn định. Tôi thường thay đổi những quyết định của mình về các việc. Tôi tìm ra nhiều mức "muốn có" hay những vấn đề ý chí bên trong. Mọi người đều có những vấn đề này. Chúng hiện hữu từ bản ngã được bảo vệ và thường thấy trong ý chí của em bé, cậu thiếu niên hay chàng trai bên trong ta. Phần lớn những ý chí này được yêu cầu nhiều hơn cả. Các ý chí của ta cần được phát triển. Sâu bên trong ta hiện hữu một tia sáng của ý chí Siêu phàm, ý chí Thượng đế. Nhiều người trải nghiệm ý chí Siêu phàm như là bên ngoài bản thân họ. Điều này có nghĩa là họ phải luôn luôn tìm một người nào đó mách bảo họ điều cần làm. Việc này dẫn tới cảm giác về sự vô dụng. Tôi đã thấy tia sáng của ý chí siêu phàm tồn tại bên trong từng con người. Điều quan trọng là bạn để cho bản thân có thời gian tìm kiếm nó bên trong bạn cho đến khi bạn tìm ra được nó. Ở đây bạn cũng thế thôi, bạn không phải là ngoại lệ. Dầu sao đi nữa thì đi theo ý chí Thượng đế có ý nghĩa gì? Tất nhiên điều đó không có nghĩa là đi theo ý chí Thượng đế như được hoạch định bởi một quyền lực bên ngoài. Tôi quyết định khám phá. Tôi nhận thức rằng mình cần phải xếp mọi ý chí bé nhỏ bên trong ngang hàng với tia sáng của ý chí Siêu phàm bên trong. Tôi dứt khoát là phương thức tốt nhất để làm điều đó (cho tôi) là phát triển việc sử dụng tích cực ý chí của mình bằng cách phó thác nó cho thực hành hàng ngày.
Tôi tìm ra một sự phó thác tốt đẹp trong các bài giảng về Hướng dẫn (các bài giảng đến qua kênh của Eva Pierrakos (1957-80) làm căn cứu cho thao tác Pathwork, tuyên bố rằng:
Ta phó thác bản thân ta cho ý chí Thượng Đế
Ta trao trái tim ta cùng linh hồn ta cho Thượng Đế
Ta xứng đáng nhất trên Đời
Ta phụng sự mục đích tốt đẹp nhất trên Đời
Ta là hiển hiện tuyệt vời của Thượng Đế.
Hàng ngày, vài ba lần trong ngày, tôi tiến hành sự phó thác ấy. Tôi làm như vậy hai năm liền, cho đến khi điều trở thành hiển nhiên đối với tôi là tôi đã khá thành thạo về việc tìm ý chí Siêu phàm bên trong.
Emmanuel nói:"Ý chí của bạn và ý chí Thượng đế là một... khi điều gì đó mang đến cho bạn hân hoan và đáp ứng nó là ý chí Thượng đế đang nói qua trái tim bạn".
Hãy xem xét việc sử dụng ý chí của bạn. Bạn đã "giả định" bản thân bao nhiêu lần tùy theo một bộ luân lý ở bên ngoài? Bạn có thường lắng nghe và đi theo mong ước của trái tim bạn không? Khi bạn xếp bản thân ngang bằng với ý chí Siêu phàm của bạn thì có thể bạn sẽ thấy đã đến lúc tập trung vào yêu thương như tôi đã từng làm.
Yêu thương
Nhiều người trong chúng ta có một cách nhìn rất chật hẹp về thế nào là yêu thương. Khi tôi để ra hai năm tiếp theo để tập trung vào yêu thương bằng bất cứ cách nào mình có thể có trong bất cứ phương thức nào cần, tôi tìm ra nhiều hình thái yêu thương, hình thái nào cũng nói:"Tôi chăm lo cho hạnh phúc của bạn bằng bất kỳ cách nào mà tôi có thể có"; "Tôi kính nể và tôn trọng ánh sáng của bạn"; "Tôi ủng hộ và tin cậy tính chính trực và ánh sáng của bạn như là người đồng hành trên đường đời". Bạn bắt đầu nhận thức rằng cho tức là nhận.
Điều gay cấn nhất là học yêu thương bản thân. Nếu bạn không rót yêu thương cho bản thân thì làm sao bạn có thể đem yêu thương cho những người khác? Yêu thương bản thân đòi hỏi thực hành. Tất cả chúng ta đều cần nó. Yêu thương bản thân đến từ chỗ sống theo những phương thức không phản bội bản thân. Nó đến từ chỗ sống bằng chân lý của mình.
Yêu thương bản thân cần được thực hành. Xin giới thiệu hai bài tập đơn giản sẽ thách thức bạn.
Bạn hãy tìm một vật gì đó để cho bạn dễ yêu nhất, như bông hoa nhỏ, cái cây, con vật hay tác phẩm nghệ thuật. Rồi chỉ đơn giản ngồi với nó và đem yêu thương quý giá của bạn cho nó. Sau khi làm như thế một số lần, hãy xem xem bạn có thể dành ra một chút yêu thương quý giá đó của mình cho bản thân được không. Bất cứ ai có một quà tặng quý như yêu thương đó của bạn cũng chắc chắn xứng đáng với việc yêu thương.
Một bài tập khác là ngồi trước gương trong mười phút và yêu thương con người mà bạn nhìn thấy trong đó. Xin đừng có thái độ chỉ trích người đó. Tất cả chúng ta đều rất thạo soi gương và phát hiện từng vết dơ nhỏ xíu. Ở đây không được phép làm như vậy; chỉ được khen ngợi tích cực trong bài tập này. Nếu như bạn muốn thách thức thực sự thì mỗi lần chỉ trích bản thân, bạn hãy bắt đầu y hệt. Hãy xem xem bạn có thể làm điều đó tới mười phút mà không hề chỉ trích không.
Đức tin
Khi nhìn lại thời kỳ sáu năm trôi qua, tôi thấy nhiều đổi thay to lớn đã xảy ra trong tôi. Tôi đã để nhiều thời gian xếp mình ngang hàng với một đức tin vững chắc giữa sự phong phú nhân từ của vũ trụ. Bạn cũng có thể làm việc đó. Bằng cách thường xuyên cố gắng không nghĩ đến ý chí luôn đòi hỏi của mình nữa, xếp nó ngang hàng với ý chí Siêu phàm, tìm ra chân lý trong mọi hoàn cảnh và đáp ứng bằng yêu thương trong hoàn cảnh ấy, bạn sẽ phát triển đức tin - tin vào bản thân, tin vào luật lệ, tâm linh, tin vào tính đồng nhất của vũ trụ, tin rằng bất cứ điều gì xảy ra trong đời mình đều có thể là phương tiện để đi tới sự am tường to lớn, yêu thương và phát triển, cuối cùng là sự thanh khiết hóa bản thân hướng theo ánh sáng của Thượng Đế.
Có đức tin nghĩa là vẫn xúc tiến chân lý của bạn khi mọi dấu hiệu bên ngoài đến với bạn đều bảo rằng có lẽ nó không thể đúng được nhưng trong thâm tâm bạn biết là đúng. Điều này không có nghĩa là tin mù quáng. Nó có nghĩa là giữ cho ngang hàng với ý đồ của bạn để nhận thức được và theo đuổi đến cùng bằng chân lý và yêu thương càng nhiều càng tốt, dù bạn thậm chí thấy ghê gớm chăng nữa.
Khi Chúa Jesus bị đóng đinh trên giá thập tự, Người đã có đức tin để thừa nhận rằng Người không còn cảm nhận được đức tin của mình nữa. Người kêu lên:"Cha ơi, sao Cha lại bỏ rơi con?". Người đã rất mực trung thực với bản thân. Vào lúc đó, người mất đức tin của mình. Người không giấu giếm việc này hoặc cố thay đổi nó thành một chuyện gì đó. Người yêu thương bản thân bằng cách biểu hiện cái thế tiến thoái lưỡng nan của mình một cách trung thự. Về sau người lấy lại được đức tin của mình khi người tuyên bố:"Cha ơi, con phó thác linh hồn con vào tay Cha".
Tôi đã thấy những người theo một đường lối tâm linh kinh qua nhiều giai đoạn của đức tin. Trước hết họ bắt đầu nghiên cứu các liên kết nhân quả. Họ nhận ra rằng một niềm tin tích cực và những hành động tích cực mang lại những thưởng công tích cực. Các ước mơ của họ bắt đầu được đáp ứng. Họ bắt đầu xây dựng đức tin trong bản thân mình. "Đức tin có tác động" Họ kêu lên vui sướng. Tuy nhiên một lúc sau họ đã sẵn sàng thử thách đức tin của họ từ một mức sâu hơn. Chắc hẳn họ không nhận thức được quyết định bên trong này của họ về việc thử thách bản thân, bởi vì điều đó sẽ thay đổi bản chất của cuộc thử. Chuyện gì xảy ra? Mọi sự thẩm tra bên ngoài về quá trình nhân quả tích cực bị suy yếu, và con người bắt đầu nao núng. Tính bi quan cũ ngóc cái đầu đáng sợ của nó lên. Luật lệ tâm linh đâu rồi? "Có thể rốt cuộc nó là quan điểm Pollyanna về vũ trụ "(Pollyanna, nhân vật nữ có tính lạc quan quá mức trong cuốn tiểu thuyết cùng tên của nhà văn giả tưởng Mỹ Eleanor Porter viết năm 1913 - ND). Điều này chắc hẳng cũng sẽ xảy ra với bạn.
Khi điều này xảy ra trong đời bạn thì nó là dấu hiệu của một sự phát triển lớn lao. Bạn bắt đầu xử lý nhiều nhân quả dài lâu hơn trong đời bạn, cả trong cuộc đời của chính mình và cuối cùng cả trong cuộc đời riêng của mình vốn được coi như một phần sự tiến hóa của nhân loại. Được thưởng công vì sống trong chân lý trở thành niềnm vui cuộc đời trong từng khoảnh khắc sống của bạn. Đừng chờ đợi kẹo bánh tâm linh. Bạn đang nhận nó ngay lúc này. Hiện hữu tại đây và lúc này có nghĩa là chấp nhận quá trình tiến hóa chậm chạp của nhân loại, thừa nhận những thiếu sót trước mắt của bạn như là sự hoàn thiện.
Xử lý thời gian
Đức tin giúp tôi xử lý một điều mà tôi gặp trục trặc làm các việc đúng lúc. Một lần tôi hỏi mẹ tôi rằng Người nhớ lại xem trong khi tôi lớn lên, tôi hay trục trặc về chuyện gì nhất. Mẹ tôi nó:"Hễ khi nào con muốn cái gì là con phải có nó ngay tức thì".
Trong một vài năm qua, tôi đã học tính kiên nhẫn và cuối cùng tôi bắt đầu hiểu ra điều cần làm đối với tôi. Ở đây có một tư tưởng có thể cũng tác động đối với bạn. Kiên nhẫn là trực tiếp bày tỏ đức tin vào kế hoạch siêu phàm. Là chấp nhận rằng tất cả mọi cái đều đúng cho bạn trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, bởi lẽ bạn đã tạo ra chúng theo cách đó. Cũng có nghĩa là bạn có thể thay đổi cái hiện hữu lúc này qua những nỗ lực cải biến của chính bạn. Thiếu kiên nhẫn rốt cuộc có nghĩa là bạn không tin rằng mình có thể tạo ra cái mình muốn. Có nghĩa là thiếu đức tin vào bản ngã và kế hoạh siêu phàm. Nó đòi hỏi thời gian thể hiện cái mà bạn mong muốn trên bình diện thể chất. Để giúp cho mình chấp nhận thực tại đó, tôi phát triển điều khẳng định sau đây:"Ta muốn tưởng thưởng sự phó thác của ta cho hiện hữu trên bình diện thể chất bằng cách tưởng thưởng thời gian mà nó cần để hoàn tất mọi việc tại đây". Vẻ chậm trễ bề ngoài giữa nhân và quả được gắn vào bình diện này tồn tại ở đây vì một lý do. Chúng ta cần có khả năng nhìn thấy rõ các liên kết nhân quả trong những quan hệ mà mình không hiểu được. Các quan hệ này rốt cuộc là nằm giữa những phần chưa hợp nhất của bản thân chúng ta.
Sức mạnh
Tới một điểm trong quá trình rèn luyện về chữa trị, tôi thấy sức mạnh tuôn chảy qua hai bàn tay mình đột ngột tăng lên. Điều này đến cùng với cảm giác như thể tôi là một nhóm mới các hướng đạo. Tôi đang thao tác trên ngón chân nhiễm khuẩn của một bệnh nhân. Tôi giữ hai tay mình như thế nào đó để phát ra ánh sáng màu bạc ngả xanh rất mạnh xuyên nhanh như chớp qua ngón chân. Hai tay tôi cách xa ngón chân chừng 1 in. Bệnh nhân kêu lên vì đau khi tôi làm như vậy do dòng chảy năng lượng đã tăng lên. Khi tôi chuyển dịch tay một cách khách, tôi có thể tạo nên một năng lượng tựa như mây trắng mềm mại từ hai bàn tay tôi đi ra, làm tiêu tan mọi đau đớn. Các hướng đạo duy trì việc điều khiển tôi nối mạch giữa hai người. Tôi mệt quá, và cứ khoảng mươi lăm phút một lần họ lại bảo tôi tới thao tác trên bệnh nhân đó. Có vẻ như đây là trường hợp cấp cứu. Những đợt chữa trị ngắn này rất hữu hiệu. Hết nhiễm khuẩn, không phải phẫu thuật. Tôi ngây ngất và nói với thầy dạy chữa trị của mình:"Thầy C. ơi, bao nhiêu là sức mạnh tuôn chảy qua người tôi! Người đáp lại:"Đấy, thế đấy; vậy bạn muốn chữa trị bằng yêu thương hay bằng sức mạnh?" Tôi dứt khoát là mình chưa sẵn sàng có được sức mạnh như vậy tuôn chảy qua người. Tôi đã vui sướng quá mức về chuyện đó theo cái kiểu "Ái chà! Hãy nhìn ta!" Tôi bèn tạm biệt các hướng đạo. Tôi không làm việc với họ suốt trong hai năm sau đó. Hiện nay tôi đã sẵn sàng. Tôi đã học hỏi được thêm nhiều về yêu thương. Về sau tôi mới hiểu ra rằng đấy là các nhà phẫu thuật tâm linh từ mức thứ năm trở lên đã làm việc với tôi.
Đức tin dựa trên chân lý. Ý chí Siêu phàm và yêu thương mang lại sức mạnh. Sức mạnh xuất phát từ sâu bên trong cá thể, từ tia sáng Siêu phàm bên trong. Sức mạnh là kết quả của việc xếp ngang hàng với tia sáng Siêu phàm bên trong của cuộc đời, liên kết với nó và để cho nó tuôn chảy. Nó đến từ cốt lõi của cá thể hay như cái mà hướng đạo tâm linh Heyoan của tôi gọi là Cõi linh thiêng. Có sức mạnh có nghĩa là ngồi trong trung tâm bản chất của con người.
Sức mạnh mang lại cho bạn khả năng hiện hữu trong yêu thương vô điều kiện và thực hành yêu thương vô điều kiện. Điều đó có nghĩa là dùng yêu thương đáp lại mọi thứ đến với bạn mà không phản bội bản ngã. Bạn chỉ có thể làm việc này bằng yêu thương bản thân trước nhất và hiện hữu trong chân lý, nghĩa là sống trung thực với bản thân cùng với điều bạn cảm nhận và phó thác bản thân cho việc chuyển dịch qua vị trí này đến vị trí khác của yêu thương. Bạn thấy đấy, nếu bạn phủ nhận các phản ứng tiêu cực mà bạn có bằng cách xô đổ chúng thì đó là lúc bạn không yêu thương bản thân cũng như không yêu thương những người khác. Nếu bạn cảm thấy và thừa nhận chúng bằng cách nào đó thì bấy giờ bạn nhường chỗ cho yêu thương của mình tuôn chảy. Bạn giải phóng bản thân cho chuyển dịch vào một vị trí yêu thương bên trong. Yêu thương vô điều kiện làm cho chúng ta hành động khoan hòa trong các cuộc đời của mình.
Khoan hòa
Cùng với các thực hành Chân lý, ý chí Siêu phàm và Yêu thương dẫn tới Đức tin nó đưa ta đến sứ mạnh, ta nhường chỗ cho hành động Khoan hòa đi vào cuộc đời của ta. Khoan hòa được nhận bằng cách để cho đi vào Trí năng Siêu phàm và được trải nghiệm như là Niềm hạnh phúc. Nó trải nghiệm sự hòa hợp trong mọi vật và sự an toàn trọn vẹn của ta bất kể xảy ra chuyện gì. Là trạng thái nhận thức rằng mọi trải nghiệm mà ta có, kể cả trải nghiệm thú vị và trải nghiệm đau đớn như đau yếu và chết chóc, chỉ đơn giản là những bài học mà ta tạo ra cho bản thân ta trên suốt chặng đường trở về với Thượng đế. Là sống trong hài hòa. Emmanuel nói:
Trạng thái Khoan hòa
cần có người đón nhận
để được vẹn toàn.
Bạn được giữ gìn trong bàn tay Thượng đế
và được yêu thương hết lòng.
Và khi yêu thương này
được đón nhận
thì chu trình đó cũng được hoàn thành
Ai được chữa trị?
Thầy chữa phải nhớ rằng mình tiến hành thao tác là nhằm chữa trị linh hồn. Điều quan trọng đối với thầy chữa là hiểu cái chết theo cách ấy và chữa trị cho con người tổng thể chứ không phải cho lần hóa thân này của người đó mà thôi. Thầy chữa không được từ bỏ việc chữa trị cho bất cứ ai đơn giản chỉ vì người này có thể chết về thể chất.
Điều quan trọng là ghi vào tâm trí hai điều khi ta cố gắng hiểu chính cái việc ta đang làm trong cương vị thầy chữa. Một là trong trải nghiệm của từng người về chuyện đau yếu của họ đều có ý nghĩa sâu sắc và hai là chết chóc không ngụ ý thất bại mà có thể ngụ ý việc chữa trị. Để nhớ điều này, thầy chữa phải sống trong cả hai thế giới tâm linh và thể chất. Chỉ có bằng cách tập trung bên trong bản thân và vũ trụ thì thầy chữa mới có thể kinh qua các trải nghiệm về việc liên tục chứng kiến nỗi đau sâu sắc rất phổ biến của nhân loại. Tôi hỏi bạn Emmanuel của tôi về điều này như sau:"Nếu chúng ta tạo ra đau yếu thì có phải việc tìm đến thầy chữa là cách làm cho chúng ta xao lãng chuyện thao tác lên bản thân, thao tác lên cội nguồn của bệnh tật?"
Emmanuel nói:"Tất cả điều này tùy thuộc vào việc vì sao bạn tới thầy chữa và tới thầy chữa nào. Đây là một câu hỏi tế nhị và là câu hỏi mà tôi dám chắc rằng thầy chữa của bạn đã từng đặt ra không biết bao nhiêu lần để tự hỏi mình. Đâu là trách nhiệm và do đó đâu là cái đem cho và đâu là cái được nhận và nếu như ta mường tượng ra điều gì đó thì phải nói là cái gì? Các câu hỏi không bao giờ chấm dứt và còn có một thực tại chủ yếu cơ bản sẽ mang lại niềm an ủi cho bạn. Khi có khoảnh khắc nhận ra rằng có thể có một kiểu chữa trị khác, thì lúc đó một cánh cửa đã mở, ý thức đã vượt xa kiểu chăm sóc y tế sẵn có được biểu hiện dưới dạng thể chất. Hiện tại tôi không hề có ý làm giảm giá trị của nghề y. Các bác sĩ làm một công việc xuất sắc, một số đượ hướng dẫn phần lớn và có thể tự do thừa nhận điều này một khi cửa đã đóng kín. Có những người khác, hoặc đang làm nghề y hoặc đang sinh sống bằng nghề khác, chỉ đơn giản không nhận thức được và không có khả năng nhận thức được tại thời điểm này. Điều đó không có nghĩa là họ kém cõi, độc ác, đồi bại hoặc xấu xa, mà chỉ đơn giản có nghĩa là họ đã phải đi vào lĩnh vực của hiểu biết. Bạn phải sẵn lòng ban phước cho họ, tiếp tục con đường của bạn, tìm ra người nào đó tự cảm thấy tương hợp hơn với ý thức của bạn và bạn sẽ hòan toàn biết cách làm việc đó. Khi bạn cảm nhận được khuynh hướng chuyển dịch vào lĩnh vực chữa trị tâm linh (tôi không nói chữa trị tâm lý, tôi nói chữa trị tâm linh) bấy giờ là lúc có nhận thức về thần linh, và bạn được thầy chữa cũng như các thần linh đến đấy để làm việc với thầy chữa này ân cần đón tiếp. Ngày nay thường người ta không mong đợi việc chữa lành. Mà thường là mong đợi việc phát hiện và làm dịu đi nỗi lo lắng băn khoăn, chứ không phải phép lạ. Vậy thì điều này có ý nghĩa gì? Như thế có nghĩa là ở điểm này ý thức của bạn đi hết mức của nó mà thôi. Là có điều gì đó để họ hỏi, có điều gì đó để hiểu biết. Một phòng học cho mỗi thân thể và một bài học cho mỗi bệnh tật. Không dùng lối trừng phạt, vì bạn đã viết ra bài khóa của chín mình; bạn đã chọn thân thể của chính mình vốn mang theo nó mọi nhược điểm có thể nói là di truyền bởi lẽ bà của bạn hay ông của bạn có chuyện gì đó. Nhưng xin nhớ rằng bạn chọn nó cũng chẳng sao. Vì vậy bạn phải tin cậy thân thể không chỉ khi đau yếu mà đặc biệt khi đau yếu, và nó đang nói với bạn về chuyện gì vậy? Có nhiều cách để nghe điều đó và nhà chữa trị đủ khả năng có thể tác động mạnh hơn tại đây giúp bạn nghe được điều mà thân thể bạn đang nói với bạn. Dĩ nhiên bạn là người hiểu được điều đó tốt nhất vì nó nằm trong ngôn từ của bạn do thân thể bạn hình thành và vì nó trực tiếp nói với bạn. Nhưng nhà chữa trị tâm linh có thể sữa đổi ý thức đó cho nhất quán lần nữa và đưa bạn tới chỗ xếp ngang hàng cùng chân lý. Dù bạn có khả năng chịu đựng chân lý đó hay có khả năng chữa trị, thì một thân thể ốm đau bấy giờ tùy thuộc vào nhiều nhân tố đến nỗi tôi không thể bắt đầu liệt kê được chúng ra lúc này. Nhưng bạn, bản thân bạn, hoàn toàn có khả năng làm việc đó.
Nếu như rốt cuộc có cái gì đó trong thuật ngữ của con người gọi là thất bại - nếu như, lạy trời đừng có chuyện này, có ai đó bị chết - thì bấy giờ bạn phải coi nó hoàn toàn như một trường hợp may mắn. Linh hồn đó đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, và có một ủy ban tiếp đón hân hoan và đông đảo hoan hô nó trong thực tại đầu tiên. Xét cho cùng, hiện hữu thể chất của bạn không mang ý nghĩa vô tận. Bạn không hiện hữu tại đây để vĩnh viễn ngồi lại trong những bộ y phục này. Tôi hy vọng rằng điều đó làm bạn hài lòng. Vì vậy, trong chữa trị tâm linh không có thất bại; chỉ có các bước đi. Đừng bao giờ ngần ngại sự việc đặt tay bạn lên người khác cùng với yêu thương và trắc ẩn. Đừng bao giờ ngần ngại việc nguyện cầu cho bất cứ ai. Đừng đòi hỏi kết quả, bởi lẽ không có cách chi để biết chắc yêu cầu của một linh hồn cá biệt. Tôi hiểu rằng việc này đòi hỏi hoặc dường như đòi hỏi đức tin nhiều vô kể. Vâng, đúng thế." Vì thân thể và tinh thần trở thành thanh khiết hơn qua các quá trình cải biến mô tả trong cuốn sách này, số sức mạnh tuôn chảy qua thầy chữa tăng lên và tần số các rung động cùng tăng lên. Sức mạnh càng cao thì chữa trị càng hữu hiệu và thầy chữa càng nhạy cảm.
Mỗi lần tôi được cung cấp sự sáng suốt và sức mạnh mới, thì sự sáng suốt này đến sau một thử thách khởi đầu từ bản thân.
Để kinh qua các trải nghiệm như thế, con người phải rất mực trung thực với bản thân. Chính trong những điều tự lừa dối mình nho nhỏ, trong đó ta có khuynh hướng tránh né không nhìn vào ý đồ hoặc những hành vi của bản ngã bậc thấp của chính mình, mà ta phản bội tính chính trực của ta và làm giảm sức mạnh của ta từ bên trong. Mỗi thử thách đều liên quan đến bất cứ vấn đề nào mà ta đang xử lý trong đời mình hiện nay; ta trù định tốt các thử thách của mình, đến nỗi khi ta đã học thì không có vấn đề về sắp xếp mức độ.
Bài tập phát hiện thiện ý làm thầy chữa của bạn
Ta trung thực ra sao? Ta sử dụng ý chí của mình trong việc xếp ngang hàng với ý chí vạn vật tốt đến mức nào? Ta sử dụng sức mạnh như thế nào? Ta yêu thương nhiều ít? Ta có thể ban trải yêu thương vô điều kiện được không? Ta có tôn trọng quyền lực của những người ta đã chọn để trao quyền lực nhằm học hỏi họ? Ta có thể làm việc đó mà không bán tống bán tháo quyền lực bên trong của chính ta? Ta phản bội tính chính trực của ta như thế nào? Điều ta mong ước là gì? Cái mà ta hy vọng sáng tạo ra trong đời mình? Đâu là những mặt hạn chế của ta, trong cương vị người phụ nữ, đấng mày râu, trong cương vị con người, trong cương vị thầy chữa? Ta có tôn trọng tính chính trực, sức mạnh cá nhân, ý chí và những khả năng chọn lựa của các bệnh nhân của ta? Ta có coi bản thân ta như một kênh dẫn gợi lên sức mạnh từ bên trong bệnh nhân đến mức mà rốt cuộc họ tự chữa lấy được? Nguyên tắc riêng của ta trong việc làm cho ai đó trở nên tốt là gì? Ta có coi chết chóc là thất bại không?
Bài tập xem xét bản chất của chữa trị
Thầy chữa là gì?
Chữa trị là gì?
Mục đích chính của chữa trị là gì?
Chữa trị mang lại điều gì?
Ai chữa trị?
Ai được chữa trị?
Heyoan gần đây có nói rằng: "Hiện tại, bạn đọc thân mến, xin đừng đặt vấn đề xét đoán bản thân theo những câu hỏi nói trên. Mọi chúng ta đều đang cất bước trên con đường thanh khiết khóa, và yêu thương là nhân tố có tác động chữa trị hơn hết thảy. Xin đừng bác bỏ bản thân mà nói rằng bạn không bao giờ có thể làm được tất cả những điều này. Bạn có thể làm và sẽ làm được. Nó chỉ đơn giản là chuyện thừa nhận vị trí và con người thực của bạn hiện tại là hoàn hảo giữa những khiếm khuyết của bạn. Thế giới tâm linh chúng tôi giữ bạn trong danh dự và nể trọng muôn vàn. Bạn đã chọn lựa để trở thành con người thể chất coi như đó là tặng vật lớn lao không chỉ cho bản thân bạn mà còn cho cả vũ trụ hiển nhiên về thể chất nữa. Những đổi thay riêng của bạn hướng tới sức khỏe và sự toàn vẹn tác động lên những người xung quanh, không chỉ lên những ai nằm trong phạm vi gần gũi với bạn mà còn lên mọi sinh vật có tri giác trên bề mặt địa cầu; quả thực là lên cả địa cầu nữa. Bạn là con của địa cầu. Bạn thuộc về địa cầu; địa cầu thuộc về bạn. Bạn đừng bao giờ quên rằng, do chỗ chúng ta chuyển dịch ngày càng sâu vào ý thức hành tinh trong tương lai gần đây, cho nên bạn sẽ là người dẫn đường trong cuộc phiêu lưu vĩ đại vào ánh sáng. Trước hết, bạn hãy yêu thương và kính trọng bản thân như chúng tôi hằng tôn kính bạn. Suy cho cùng thì khi chúng tôi có mặt cùng với bạn là lúc tất cả chúng ta có mặt trong sự hiện diện của Siêu phàm. Bạn được ôm ấp trong cách tay Thượng đế và được yêu thương một cách trọn vẹn. Bạn hãy biết điều đó và bạn nhất định sẽ được tự do như ở nhà.
Khi bạn hiểu rằng cuộc đời này được trải nghiệm như một rung động, bạn trở nên cởi mở và cảm thấy vui sướng, bạn chuyển dịch trong yên tĩnh của hòa bình và bây giờ bạn thu nhỏ lại. Nhiều người trải nghiệm việc thu nhỏ lại này như một trải nghiệm tiêu cực. Nhiều người trong số các bạn sẽ trải nghiệm một niềm vui kỳ lạ, như được cùng có mặt với các thiên thần trong một cuộc hội thảo hay một buổi chữa trị. Bệnh nhân cũng sẽ trải nghiệm như vậy. Nhưng bạn hãy nhớ rằng, do bản chất rất riêng của trạng thái năng lượng cao được bành trướng, về sau bạn sẽ thu nhỏ lại và càng cảm thấy rõ hơn ý thức bị phân cách nằm bên trong bạn. Sức mạnh tuyệt đối và cường độ của năng lượng tâm linh đánh cho chất linh hồn tối tăm ứ trệ long ra và bắt đầu soi sáng nó. Vì nó trở lại cuộc đời lần nữa cho nên bạn trải nghiệm nó như thật. Tất cả mọi thứ đau đớn, giận dữ và oằn oại của nó. Có thể bạn tự nhủ:"Tại sao lúc này ta lại xấu hơn trước đây lúc ta mới bắt đầu?" Cho phép tôi đảm bảo với bạn rằng điều đó không đúng. Bạn chỉ nhạy cảm hơn trước. Sau khi trải nghiệm những thăng trầm đó, những lần bành trướng và thu nhỏ lại này nhiều lần cho từng vấn đề riêng tư, bạn sẽ phát hiện ra rằng chúng biến mất thật. Nhiều tháng sau, bạn sẽ nói:"Chà! Ta không còn làm chuyện đó nữa". Và bạn sẽ khóc vì sung sướng, y hệt như một vài lần đầu tiên khi bạn trở về trong ánh sáng và trải nghiệm nó. Hãy nhớ rằng kiên nhẫn là lời nói của đức tin.
Điểm lại Chương 27
1. Những thuộc tính cá nhân chủ yếu mà người thầy chữa cần phát triển để giữ được trong sạch là gì?
2. Những thử thách cuộc đời trước hết là gì?
Để làm động não
3. Quá trình thanh khiết hóa riêng của bạn là gì để đưa bạn đến vị trí hiện nay trên đường đời của mình?
4. Bạn đã sẵn sàng làm thầy chữa chưa? Ở những mức nào?
5. Tại phạm vi nào trong cuộc sống của mình có thể bạn sử dụng sai nhất sức mạnh mà bạn có trên cương vị thầy chữa? Ý đồ của bản ngã bậc thấp hay bản ngã bóng của bạn tại đó? Ý đồ đó dựa trên niềm tin sai trái nào? Bạn có thể chữa trị phần đó của bản thân như thế nào và xếp lại bản thân ngang hàng với ý chí Siêu phàm bên trong bạn như thế nào?
6. Hãy trả lời các câu hỏi thuộc tiểu mục "Bài tập phát hiện những lo sợ của bạn".
7. Hãy trả lời các câu hỏi thuộc tiểu mục "Bài tập phát hiện những niềm tin tiêu cực của bạn".
8. Hãy thực hiện bài tập yêu thương bản thân thuộc tiểu mục "Yêu thương".
9. Hãy trả lời các câu hỏi thuộc tiểu mục "Bài tập phát hiện thiện ý làm thầy chữa của bạn".

******** 




HẾT
Thuốc y tế  y học y tế  sức khỏe  thực phẩm chức năng
Digg Google Bookmarks reddit Mixx StumbleUpon Technorati Yahoo! Buzz DesignFloat Delicious BlinkList Furl

0 nhận xét: on "Nhân Điện: BÀN TAY ÁNH SÁNG 2"

Đăng nhận xét