Hiển thị các bài đăng có nhãn MỸ THUẬT NGOÀI NƯỚC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn MỸ THUẬT NGOÀI NƯỚC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 27 tháng 4, 2016

HOA SƠN BÍCH HỌA- NỘI DUNG VÀ GIẢ THIẾT




HOA SƠN BÍCH HỌA- NỘI DUNG VÀ GIẢ THIẾT
Lê Bá Thanh
Bích họa là những bức tranh được miêu tả trên vách các hang động hay vách đá lần đầu tiên được tìm thấy ở Châu Âu, chủ yếu được sáng tạo vào cuối thời kỳ đồ đá cũ đến thời đại đồ sắt sớm, các nội dung thường miêu tả nhiều đến cuộc sống săn bắn, hình ảnh phản ánh thường là động vật hoang dã như: gia súc, gia cầm,...  các tác phẩm đó phần nào phản ánh tư duy, trí tuệ cũng như thẩm mĩ của tổ tiên con người trong cuộc sống, là cơ sở nghiên cứu quan trọng tìm ra nguồn gốc, sự phát triển của mỗi tộc người. Vì vậy, các tác phẩm này đã trở nên vô cùng quý giá, là cơ sở vững chắc nhất, là chìa khóa để chúng ta khám phá cuộc sống của tổ tiên loài người. Việc phát hiện ra Bích Họa Hoa Sơn là một bức ngoặt quan trọng bù đắp vào những chỗ khuyết trong nghệ thuật bích họa và thêm phần làm phong phú nguồn tư liệu cho nghiên cứu lịch sử, quan trọng hơn nữa là đã góp phần vào kho tư liệu nghệ thuật tạo hình  quý giá thế giới.
Về Bích họa Hoa Sơn, nhiều nhà nghiên cứu khảo cổ, văn hóa của cả Trung Quốc và Việt Nam đều cho rằng là sản phẩm của người Lạc Việt cổ (tổ tiên của Choang hiện nay) những khắc họa đồ án hoa văn có ý nghĩa thần bí trên vách núi Hoa Sơn. Ở đây, Bích họa Hoa Sơn được hiểu theo nghĩa hẹp là chỉ những bích họa trên sườn núi Hoa Sơn thuộc khu tự trị người Choang ở Ninh Minh, Sùng Tả, Quảng Tây, Trung Quốc. Theo nghĩa rộng, khi nói đến Bích họa Hoa Sơn, ai cũng hiểu là đề cập đến công việc khảo cổ ở Bằng Tường, Long Châu, Sùng Tả, Ninh Minh, Phù Tuy, Đại Tân... tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, nơi đã tìm thấy các bích họa trên vách núi nằm bên trái lưu vực sông các quận khu vực tập trung người dân tộc Choang. Vì Bích họa khá lớn về quy mô cũng như sự phức tạp của các chân dung và sự nguy hiểm khi bích họa nằm cheo leo trên sườn núi nên mọi người  lấy tên Bích họa Hoa Sơn làm danh từ chung để chỉ công việc khảo cổ ở khu vực rộng lớn này làm tên gọi chung. (Hình 1)
 Vài nét về Bích họa Hoa Sơn
Về địa danh, Hoa Sơn nằm ở bên trái bờ sông Đà Long huyện Ninh Minh, cách thị trấn Ninh Minh khoảng 25km, cách thành phố Nam Ninh khoảng 180km. Ở đây, Bích họa được hiện diện trên sườn dốc đứng với độ cao 260 mét.  (Hình 2)
Về kích thước, bức bích họa dài 220m, cao 45m và có hơn 1.800 nhân vật. Về tạo hình, Bích họa là một tổ hợp các motip tạo hình với bố cục rõ rang, mạch lạc. Ở giữa bức tranh có hình ảnh người, hình ảnh thú, những thứ như (hoa văn trống dồng hoặc la đồng, vòng đầu của con dao...). Chân dung cao nhất ở trung tâm bức tranh cao 2,4 mét, nhỏ nhất là 30 cm, đa số các nhân vật có kích thước trung bình cao 60 cm; Các nhân vật ở giữa bức tranh cao 1,5 mét, hai chân dang rộng như cái xiên, hai tay dang rộng bằng nhau, và người đứng đầu có hình dạng như một quả núi. Các bức chân dung giống như những con ếch trong tư thế bơi dưới nước. Toàn bố cục tranh, có chân dung to, cao nhất ở trung tâm đang cầm kiếm, có đeo vòng nguyệt quế ở trên đầu nên các nhà nghiên cứu cho rằng đó chính là người chỉ huy hoặc là thầy phù thủy. Vây xung quanh nhân vật to lớn đeo vòng nguyệt quế là những nhân vật nhỏ có những vẻ mặt khác nhau nhưng cân đối trên mặt tranh.
Chân dung có phong cách cổ xưa, thô sơ, có lực. Tất cả các chân dung được vẽ bằng chất liệu đất màu đỏ, mặc dù chịu nhiều sự tàn phá của tự nhiên trong nhiều năm nhưng tất cả vẫn sống động, rõ ràng.
Toàn bộ dốc vách đá thẳng đứng Hoa Sơn được vẽ đầy các chân dung bằng đất màu đỏ. Chân dung thường được nhìn ở phía chính diện và tư thế nghiêng hẳn sang bên trái hoặc phải. Hầu hết các chân dung đều có hai tay giơ cao, hai chân dang rộng mở ra như cái xiên đứng vững tạo thành hình vuông với mặt đất. Mặt bên chân dung hai tay duỗi căng, hai chân nhỏ nhảy kiểu ngồi xổm như kiểu chiến binh đang tập võ hoặc đang nhảy múa theo điệu nhạc như cuồng vũ hoan ca giống như những cảnh thổ dân trên thế giới nhảy múa quanh đống lửa.
Về niên đại, Bích họa Hoa Sơn đã có trước thời Đông Hán, cách ngày nay khoảng 2.000 năm lịch sử trở lên. Và đến ngày nay, hàng nghìn năm đã trôi qua, với một lịch sử lâu dài v của tổ tiên người Choang tổ tiên của dân tộc Choang với một chiều dài lịch sử thăng trầm với những cuộc đấu tranh với thiên nhiên, với các tộc người xung quanh và điều đó đã khiến cho diện mạo tộc người thay đổi, văn hóa nay cũng đã khác nhưng Bích họa Hoa Sơn có quy mô lớn và đầy tính nghệ thuật trên sườn núi, thông qua không gian, thời gian, qua lịch sử lâu dài hàng, trải qua sự xói mòn của mưa gió, của sấm sét, đến nay những bích họa đó vẫn còn màu sắc rực rỡ, phong thái sống động, phong cách độc đáo và độc lập với nghệ thuật thế giới và được coi là một bí ẩn trong kỹ thuật sử dụng màu sắc mà đến nay vẫn chưa có lời giải.
Vậy tổ tiên của dân tộc Choang vẽ những bích họa lớn trên vách núi với ý định gì? Một số chuyên gia, học giả sau khi trải qua khảo sát tại hiện trường đã cho rằng đây là tiệc mừng thắng lợi, hoặc là lễ mừng vụ gặt thắng lợi hay thao luyện hoặc đi săn cái gì đó, đây vẫn là là những ý kiến khác nhau mà chưa có kết luận chính thức nào được công bố nên hiện nay vẫn còn là một bí ẩn. Bích họa trên vách đá Hoa Sơn của dân tộc Choang là kho tàng nghệ thuật thực sự, nó thô sơ và khỏe mạnh về đường nét, bút pháp cũng như phong cách khá cổ xưa, thần thái của các nhân vật sống động như thật, phản ánh thị hiếu thẩm mỹ và những tiêu chuẩn nghệ thuật linh hoạt đã đạt đến chuẩn mực trong nghệ thuật tạo hình của người Choang cổ đại. Nhiều học giả, chuyên gia có nhiều năm nghiên cứu đã công nhận: Bích họa Hoa Sơn có sự phân bố rộng rãi và được vẽ ở địa điểm dốc đứng, mặt tranh hùng vĩ đồ sộ. Tranh được vẽ trong điều kiện khó khăn nguy hiểm, trong lịch sử nghệ thuật thế giới rất hiếm thấy nên đã được đưa vào kho tàng nghệ thuật tranh tường độc đáo nhất, đã nổi tiếng trên toàn thế giới về thể loại bích họa.
Một số giả thiết
Một số học giả cho rằng những bích họa Hoa Sơn là bằng chứng của một buổi cúng tế có liên quan đến thần thánh. Cảnh sinh động ở đây ban đầu được cho là phản ánh việc các pháp sư, thầy mo thời nguyên thủy đang tế thủy thần và khẩn cầu cho vạn vật sinh sôi, nảy nở, đó là di sản văn hóa của người Lạc Việt - tổ tiên của người Choang. Loại trừ hình tượng nhân vật bên ngoài, ở bên cạnh nhân vật trung tâm còn có chó, chim, thuyền, dao, kiếm, trống... Nhân vật trung tâm cao lớn là trung tâm của bích họa, hai tay giơ cao, cong đến tận khỉu, hai chân mở rộng như chiếc xiên như hình con ếch, quanh nhân vật trung tâm có số lượng lớn các nhân vật có kích thước nhỏ, mặt bên là kiểu ngồi xổm, hình dáng cơ thể đầy đủ, kiểu tóc thay đổi, biến hóa phong phú, khung cảnh to lớn, hùng vĩ, họa pháp đơn giản, phong phú rực rỡ, nguy nga hùng tráng. Họ tổ chức buổi tế lễ lớn như vậy để thỉnh cầu thủy thần phù hộ mùa vụ tốt đẹp và phù hộ sinh sôi thịnh vượng. (Hình 3)
Theo lịch sử và truyền thuyết của dân tộc Choang, một số học giả người Choang như dân tộc học, văn hóa dân gian, xã hội học, tâm lý học dân tộc thì những nghiên cứu vốn có như đặc điểm và hành vi, chẳng hạn như biểu tượng totem, kết hợp với nhóm hình ảnh bích họa trên vách, họ cho rằng bức bích họa trên vách núi là thể hiện theo huyền thoại, cổ sử "cầm lôi đồ long" (giết rồng bắt sấm) nói về B Bá một nhân vật anh hùng kiểm soát đại hồng thủy, sáng tạo trời đất trong sáng thế ký của người Choang (Hình 4). Nhà nhân chủng học Ba Lan Bronislaw Malinowski cho biết: Đối với các cuộc khủng hoảng, phù thủy cũng có thể làm cho một người hay một vài người trở thành một cơ quan hay lãnh đạo của một bộ lạc cách để giúp người dân tự tổ chức." . Vì vậy, các nhân vật trung tâm của bích họa trên vách núi đặc biệt to lớn, có thể là nhân vật anh hùng Bố Bá, hoặc là pháp sư, phù thủy là những lời giải thích phù hợp nhất.
Nội dung  thờ phụng thủy thần của người Lạc Việt:
Những bức bích họa ở Hoa Sơn được các nhà khảo cổ phát hiện nhưng chưa có kết luận chính thức về niên đại. Nhưng ít nhất cũng có niên đại từ 2 đến 3 nghìn năm trước. Từ các hiện vật được tìm thấy trên bích họa của văn hóa Lạc Việt, về nội dung có thể được suy ra là người Lạc Việt tôn thờ thủy thần. Cái gọi là " - Lạc" là "鸟田- điểu điền" (Chim đất), là văn minh lúa nước; "“ - Việt" là đề cập đến nền văn minh đồ đồng. "Lạc Việt" là nền văn minh lúa nước, văn minh đồng thau. (Hình 5)
2.000 năm trước, người Lạc Việt sống hai bên bờ sông đã phát minh ra công nghệ đóng thuyền, chiếc thuyền đầu tiên được làm bằng gỗ và thường có con chim đậu ở mũi thuyền. Nhưng khi mọi người ngồi lên thuyền, dòng nước ở con song này thường chảy xiết và nhấn chìm thuyền. Theo thời gian, mọi người đã tìm ra cách bảo vệ thuyền đi an toàn, bình an, nên họ đã bắt đầu phát triển tục thờ cúng thủy thần trong những khu vực dễ có nguy cơ xảy ra tai nạn. Thời này vẫn còn sơ khai, chưa có đền thờ, vì vậy nó sẽ là hành động, nghi thức cúng tế những người thiệt mạng được vẽ bằng màu đỏ, để triệu hồi linh hồn ở dòng sông, để an toàn đường thủy cho mọi người mưu sinh trên thuyền. Nghi thức uốn cong cánh tay, nâng đầu gối kiểu hình "con ếch" là một biểu tượng của hành động của người Lạc Việt cổ. Hành động này cũng lặp lại nhiều nhất trong bức bích họa, đến bây giờ mọi người vẫn tiếp tục sử dụng. Ngày nay tại huyện Long An, Quảng Tây mỗi năm vẫn tiến hành lễ cúng lúa ngày 6 tháng 6 "六月六稻神节", các nghi lễ và nội dung rất giống các nghi lễ trên bức bích họa. Và mọi người nghĩ và tôn thờ Thủy thần, bởi Thủy thần là mẹ của "Lúa nước", và mỗi năm đều thờ cúng "Thần lúa” để được bảo vệ bình an cho thu hoạch.
Hoa sơn Bích Họa, thể hiện điệu múa Sư Công của người Choang?
Một số học giả cho rằng: Các tạo hình nhân vật trong bích họa Hoa Sơn của dân tộc Choang đang nhảy múa, tạo dáng, mặt nạ, mũ, kiếm có sự tương đồng khác thường . Biểu hiện như sau: Đầu tiên, Nội dung của Bích Họa Hoa Sơn có nội dung phản ánh các điệu múa Sư Công (Hình 6a, b)
Thứ nhất, tổ tiên dân tộc Choang cổ đại cho rằng thiên tai nhân họa đe dọa đối với chí mạng của mọi người, họ không thể hiểu được các hiện tượng tự nhiên và họ không thể chinh phục nên sinh ra thuyết "vạn vật hữu linh", nên các hiện tượng tự nhiên được họ coi như các vị thần, như thần đất, thần trời, thần nước, sơn thần, Từ sự tôn sùng tự nhiên phát triển đến sùng bái thần linh. Mọi lễ hội dân gian quan trọng, bắt buộc phải mời Sư Công chủ trì nghi thức cúng tế, Sư Công làm những hành động trung gian giữa thần và người, đeo mặt nạ, đóng vai vị thần, vui vẻ hát múa, tế trời đất, cầu tứ phương. Múa hát với mục đích cầu xin thánh thần ban phúc cho một vụ thu hoạch lúa bội thu, người, vật bình an, xã tắc thái bình.
Thứ hai, trên bích họa có rất nhiều hình ảnh là các ký hiệu cho thấy giống với các đạo cụ mà Sư Công sử dụng để nhảy múa. Các nhà nghiên cứu cho rằng các hình ảnh trên Bích họa cho thấy đây là điệu múa chiêng của dân tộc Choang "Hát đồng phải lên đồng, lên đồng phải nhập giá”. Ở đây và cả trong ca vũ truyền thống của người Choang, mặt nạ là một trong những đặc trưng chủ yếu trong múa Sư Công nên khi múa, phải hóa trang theo hình tướng vị thần đại diện, nhằm thể hiện bầu không khí thần bí, ám thị thần nhập thể xác. Người và thần tương thông với nhau, trời và đất kết nối với nhau, múa Sư Công còn phải dựa vào trống "nhạc", lấy trống "nhạc" đệm cho múa. Bởi múa Sư Công là vũ điệu sử dụng đạo cụ trống, "tất cả loại múa lên đồng đều phải sử dụng công cụ của thần linh". Múa Sư Công không thể tách rời các pháp khí như dao, kiếm... để trấn ma trừ tà, tiêu tan tai họa và bệnh dịch. Bích Họa Hoa Sơn trên vách đá có rất nhiều hình tượng trống, chẳng hạn như: trống đồng, chuông... Nhân vật chính là thủ lĩnh đều đeo vòng dao trên đầu, rất nhiều người đeo mặt nạ che phủ toàn bộ khuôn mặt, mặt nạ có ba mắt, bốn mắt, rất giống với phù thủy.
Thứ ba, các nhân vật tạo hình trên Bích họa Hoa Sơn là đặc trưng của phong cách tạo hình múa Sư Công của dân tộc Choang, điển hình nhất là tạo hình kiểu múa ếch, dáng ngồi xổm, hai tay gập lại và giơ lên hai bên. "Ếch xanh kêu, nước mưa tới", trong tín ngưỡng dân gian Choang, ếch xanh là vị thần có địa vị trung tâm trong tâm thức người dân, trong nghệ thuật tạo hình, ếch là vị thần đặc trưng của dân tộc Choang và đây là hình ảnh totem phản ánh nhận thức, hầu hết hàng nghìn hình ảnh trên Bích Họa Hoa Sơn đều có các nhân vật được thể hiện theo phong cáchn này, đặc biệt chân dung nhân vật chính ở trên cao là một phong cách "ếch" điển hình. (Hình 7a, b) Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ múa Sư Công của dân tộc Choang được thể hiện khá rõ trên vách đá Hoa Sơn, các nhân vật gần như giống hệt nhau về phong cách và hình dáng. Múa Sư Công là của người Choang mà tổ tiên của họ chính là người Lạc Việt cổ xưa, là một nghi lễ tế thần, là những "hóa thạch sống" của các điệu nhảy cổ xưa còn tồn tại đến nay, và đây cũng là vật chứng chứng inh rằng văn hóa Lạc Việt cũng chính là khởi nguồn cho văn hóa Trung Hoa này nay..
Văn hóa Lạc Việt là nguồn gốc quan trọng của Văn hóa Trung Hoa
Văn hóa lúa nước, văn hóa trống đồng, văn hóa nham họa, Lạc Việt cổ đại, rồng mẹ đầy huyền thoại... những điều ấy lấp đầy tình cảm và thi vị vừa mang màu sắc thần bí say mê của con người vừa mang tính sinh động trong minh chứng lịch sử. "Văn hóa Lạc Việt là sự khởi đầu quan trọng cho văn hóa Trung Hoa". Nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc Tạ Thọ Cầu (là nhà nghiên cứu văn hóa Trung Quốc nhiều năm, cùng với vốn thượng tầng văn hóa phong phú), ông nói: Lạc Việt là tổ tiên chung của các dân tộc bản địa khác nhau của miền Nam Trung Hoa, từ xa xưa hơn mười nghìn năm trước ở thời đại đồ đá mới họ đã biết trồng lúa nước, lúa mạch..., và bây giờ cuộc sống của người dân, sinh hoạt, nhà cửa, quần áo vẫn còn bị ảnh hưởng bởi văn hóa Lạc Việt.
Tại đoạn sông nơi Bích Họa Hoa Sơn hiện diện cũng xuất hiện và đã vớt được những mẫu vật là cây giáo rất lớn thời kỳ Bách Việt, những con dao to và nhiều vật khác, rất có khả năng khu vực thực hiện nghi lễ này thời kỳ đó là đường đi qua của quân đội. Bởi ở trung tâm bức bích họa, ngoài vị thủ lĩnh, còn có con chó được thể hiện phía trước, cho thấy rằng thủ lĩnh hoặc thầy mo người Lạc Việt tại lễ tế đã ném con chó xuống sông cùng các vật tế. Dao đeo thắt lưng, chân bước như tuấn mã, nhìn lên phía trên hình ảnh nhân vật có dáng dấp của một tướng quân, bên phải tướng quân có hình ảnh trống đồng, phía trước là hình ảnh con chó. Tạ Thọ Cầu nhấn mạnh: Cây giáo lớn của người Lạc Việt được cho là đã có cách đây hơn hai nghìn năm lịch sử của thời đại đồ đồng. Nó xuất hiện trong thời gian, đặc điểm phù hợp với nước Lạc Việt ra đời, là biểu tượng của quyền lực. Là vật khí trong các hoạt động của nghi lễ. Đương thời chỉ có một người cao nhất là thủ lĩnh có thể cầm và sử dụng. Điều này được hiểu rằng hiện nay có rất nhiều hiện vật được thu thập và được cất giữ, trưng bày ở bảo tàng Sùng Tả. (Hình 8)
Tạ Thọ Cầu tin rằng Văn hóa Lạc Việt là một nguồn gốc quan trọng của văn hóa Trung Quốc, không còn nghi ngờ gì nữa, bởi vì hình trống đồng đã được vẽ trên vách đá, vẽ thành hình buổi lễ tế thần lúa, vẽ thành những vật hữu hình, có thể để lại cho tương lai một di sản quý giá để nghiên cứu và học tập. Nội dung, hình thức, phong cách, thần thái của bức Bích Họa Hoa Sơn cũng có thể là nguồn cảm hứng cho sáng tạo nghệ thuật đương đại, và những hình ảnh này đã gây sốc cho thế giới bởi đây là tác phẩm có một không hai đã tồn tại trên hai nghìn năm dưới nắng mưa, bão tố nhưng vẫn không phai mờ.
Tài liệu tham khảo:
1.      Đặng Việt Thuỷ (Chủ biên), 54 dân tộc Việt Nam – là cây một gốc, là con một nhà, Nhà xuất bản: Văn Hoá Thông Tin
2.      Nhiều tác giả, 54 dân tộc Việt Nam, NXB: Thông tấn. 6/2008
3.      Lâm Hán Đạt và Tào Dư Chương. Lịch Sử Trung Quốc Năm Ngàn Năm. Trần Ngọc Thuận dịch. NXB Văn hóa Thông tin, 1997
4.      作者:王柏灿. 壮族饮食文化与壮族医药. 中国民族民间医药, 2004
5.      作者:方素梅. 壮族饮食文化的历史探析. 广西民族研究, 1998
6.      作者:李元君. 美丽的锦绣壮族服饰精/中国民族服饰文化书系. 社:接力. 出版时间: 2012.02.01
Hình 1: Núi Hoa Sơn- nơi hiện diện của Bích họa hơn 2.000 năm trước.
Hình 2: Bích họa gồm hơn 1.800 nhân vật cùng các loại thú, thực vật
Hình 3: qua nhóm nhân vật này, Bích họa được cho là thể hiện các nghi lễ trong truyền thuyết của người Choang
Hình 4: Vị anh hung Bố Bá trong huyền thoại Choang (Tranh minh họa năm 2014
Hình 5: Hoạt cảnh này trên Bích họa giống với một buổi tế Thủy thần
 
Hình 6a,b: Được cho rằng đây là múa Sư Công của người Choang
Hình 7a, b: Điệu múa Sư Công của người Choang ngày nay
Hình 8: Văn hóa Lạc Việt là một nguồn gốc quan trọng của văn hóa Trung Quốc
read more...

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

Tranh của các họa sĩ Châu Âu

Tranh của các họa sĩ Châu Âu


Anton Romako – Áo


Arnoldus Bloemers – Hà Lan





August Clement Chretien – Pháp





Amable Lenoir





Charles Amable Lenoir





Charles Borromee Aantoine Houry – Pháp





Charles Burton Barber





Charles Chaplin – Pháp





Charles Emile Jacque – Pháp





Charles Soubre – Bỉ



(Tổng hợp)
read more...

Thứ Sáu, 16 tháng 10, 2015

Sơn Thủy Họa

Sơn Thủy Họa

đăng 21:29 31-07-2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 21:52 15-12-2013 ]
Tranh sơn thủy hay Tranh phong cảnh là những bức tranh vẽ lên cảnh quan sông, núi khi thì hùng vĩ, khi thì tĩnh lặng. Đây là loại tranh tiêu biểu nhất của Trung Quốc.
Để thể hiện được một ngọn núi hay một dãy núi thì các hoạ gia phải có góc nhìn từ rất xa để bao quát toàn cảnh. Vì vậy, tranh sơn thủy thường chia thành 3 chủ đề/bố cục: Cao Viễn, Bình Viễn và Thâm Viễn.
Còn nước trong tranh có khi là khe suối trên núi hay là một khoảng thác ghềnh, một khúc sông nước mênh mong tuỳ theo bố cục chung của bức tranh. Dưới đây là ba bố cục chính của tranh sơn thuỷ.
1) Cao Viễn
Tranh phong thủy theo bố cục cao diễn hiện ra trước mắt ta một phong cảnh cao cả và hùng vĩ. Núi được dùng làm nội dung chủ đạo. Trong tranh ta thấy đỉnh núi cao vút, trùng trùng điệp điệp và được nhìn từ rất xa, toàn cảnh thể hiện từ đỉnh núi trải dài xuống dưới; tiêu điểm/điểm nhấn của bức tranh có thể thay đổi và xuất hiện từ đỉnh núi xuống chân núi. Bên dưới là hai bức theo bố cục cao viễn.
 



《秋山晚翠圖》五代 關仝 
Thu sơn vãn thúy đồ - Quan Đồng (Ngũ Đại)


谿山行旅圖  北宋 范寬 
Khuê Sơn Hành Lữ Đồ - Phạm Khoan (Bắc Tống)

2) Bình Viễn

Tranh Bình Viễn vẽ ra trước mắt ta một phong cảnh mênh mong, xa xăm. Chữ Bình ẩn chứa hai nghĩa là bằng phẳng và yên bình. Núi trong tranh không cao, tác giả dùng phần Thủy làm nội dung chủ đạo nên ta sẽ thấy bức tranh mênh mong sông nước và xa xa là dãy núi lô nhô, chập chùng hay bên cạnh là một phần của ngọn núi cao. Trong tranh thường có cảnh con thuyển và ngư phủ hay các "ông tiên" đang chơi cờ, bình thơ ở các mỏn đá.


《秋江待渡图》元 盛懋
Thu giang đãi độ đồ - Thịnh Mậu (Nguyên)



《洞庭渔隐图》元 吴镇
Đổng Đình Ngư Ẩn Đồ - Ngô Trân (Nguyên)


3) Thâm Viễn

Phong cảnh nhìn từ trên cao xuống thể hiện không gian sâu rộng. Tranh thường hiện ra các thung lũng, hang động trong núi nên mang vẽ u tịch, huyền bí hoặc hiểm trở; là những nơi mà các ẩn sĩ hay tìm đến để lánh đời!


《玉洞仙缘图》明 仇英 
Ngọc Đổng Tiên Duyên Đồ - Cừ Anh (Thời Minh)




《杏花茅屋图》明 唐寅 
Hạnh Hoa Mao Ốc Đồ - Đường Dần (Minh)




Hoa điểu họa

đăng 20:54 20-07-2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 06:56 02-04-2015 ]
Hoa Điểu Họa 花鳥畫 rất phong phú và đa dạng. Nội dung của thể loại này là chim chóc, hoa cỏ hay các loài vật. Tùy theo sở thích hay sở trường của họa gia mà họ chọn một hoặc một vài loài vật cụ thể để sáng tác.


清 陳書 歲朝麗景 
Tuế triều lệ cảnh - Trần Thư (thanh) 

    Ý nghĩa biểu trưng của tranh Hoa Điểu: 
    Để hiểu về tranh hoa điểu ta cần biết qua các ý nghĩa biểu trưng của các loại hoa cỏ, loài vật theo quan điểm, phong tục của người Trung Hoa. Thông thường người ta phân nội dung tranh Hoa Điểu ra thành các chủ đề, trong mỗi chủ đề các họa gia sẽ vẽ một hoặc một số vật biểu trưng để gửi gắm tình cảm, tâm tư của mình vào đó. Dưới đây là các chủ đề chính của tranh hoa điểu. 

a/ Hoa Hủy:
    Hủy 卉 là tên gọi chung các thứ cỏ. Như kì hoa dị hủy 奇花異卉 hoa kì cỏ lạ. Hoa Hủy là nói chung về các loài hoa cỏ, cây cối làm nội dung chính trong bức tranh. 

    Hoa có một địa vị rất đặc biệt trong đời sống văn hóa. Hoa có thể làm đại diện cho một nước gọi là Quốc Hoa. Mỗi loại hoa phổ biến thường biểu trưng cho một ý nghĩa trong đời sống tinh thần, hội họa cũng lấy đó mà làm nguồn cảm hứng sáng tác. Ý nghĩa biểu trưng thường dựa vào hai đặc điểm chính, hoặc là do bản thân điều kiện sống trong thiên nhiên hay vẽ đẹp của chúng, hoặc là do tên gọi (phát âm) của nó khiến ta liên tưởng tới sự tốt đẹp trong cuộc sống. 
    Ý nghĩa biểu trưng của một số loại hoa, trái và cây cối thường thấy trong hội họa Trung Hoa: 

  • Hoa Mẫu Đơn: ngoài vẽ đẹp lộng lẫy, rực rỡ vốn có, hoa mẫu đơn còn tượng trưng cho sự phú quý. 
  • Hoa Sen: ngoài nét đẹp tinh khiết, giản dị, Sen còn nói lên cái bản chất 'gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn' 
  • Trái Đào tiên: thể hiện sự tường tồn, đắc thọ. 
  • Cây ngô đồng: trong thi ca, cây ngô đồng thuộc loại cây quí phái, hoa của nó là “vương giả chi hoa”. Còn thân cây thì to lớn sừng sửng giữa trời. 

Hoa Mẫu Đơn



Cây Ngô Đồng nở rộ trước sân điện Hữu Vu, kinh thành Huế. 
Nghe nói cây Ngô Đồng này được nhà Nguyễn mang từ Quảng Châu về trồng.


    Tứ Quân Tử 四君子: đây là chủ đề nổi bậc nhất và được nhiều người ưa thích trong nhóm tranh Hoa Hủy. Tứ Quân Tử là bốn loài Mai, Lan, Trúc và Cúc梅蘭竹菊. Mỗi loại có một đức tính đặc trưng và rất gần với các đức tính của người Quân Tử theo quan điểm Nho Giáo. 
  • Mai: hoa mai nở rộ vào đầu xuân sau khi đã chịu đựng cái giá lạnh của mùa đông. 
  • Lan: diễm kiều mãnh mai, hoa của nó lâu tàn có hương thơm kính đáo 
  • Trúc: thân cây ngay thẳng, thể hiện tinh thần tiết tháo trước gió mưa nghiệt ngã. 
  • Cúc: sau khi trải qua một đợt nắng khắc nghiệt của mùa hè nhiều loại rụng lá trơ trọi vào mùa thu thì cúc lại đua nhau nở hoa, tô điểm cho đời bằng nhiều màu sắc khác nhau. 

四君子 Tứ Quân Tử 

    Ngoài ra, Cúc và Mai còn được ca ngợi cùng với cây Tùng. Người xưa gọi là Tuế hàn tam hữu 歲寒三友 (ba người bạn khi trời lạnh). Mặc dù trong mùa sương tuyết các cây khác đều không chịu đựng nổi, sơ sát nhưng Tùng, Cúc, Mai vẫn sừng sửng tốt tuơi. 



b/ Trùng Ngư 蟲魚 

    Các loài ong, bướm, cá tôm ... gọi chung là Trùng Ngư cũng là những nguồn cảm hứng để các họa gia sáng tác. 

錢選 - 荷塘早秋图 
Hà Đường Tảo Thu Đồ - Tiễn Tuyển


紅鯉魚 Hồng Lý Ngư 



c/ Điểu Thú 鳥獸 
    Tranh vẽ các loài Gia cầm, Gia súc và các Động vật hoang dã được xếp vào chủ đề Điểu Thú. 


寫生珍禽圖 - 黃荃 
Tả Sinh Trân Cầm Đồ - Hoàng Thuyên (Ngũ Đại) 


八駿圖 - 郎世寧
Bát Tuấn Đồ - Lang Thế Ninh
c/ Linh Vật 靈物 
    Linh: là thần linh. Khí tinh anh của khí dương gọi là thần 神, khí tinh anh của khí âm gọi là linh 靈, ý nói vật gì được khí tinh anh đúc lại hơn cả trong các vật cùng loài với nó vậy. Người là giống linh hơn cả muôn vật, con kỳ lân, con phượng hoàng (phụng), con rùa, con rồng gọi là tứ linh 四靈 (bốn giống linh trong loài vật) Người ta cũng gắn cho mỗi con vật một hay một vài ý nghĩa nào đó, phần lớn là do niềm tin về tín ngưỡng. 


龍鳳呈祥
Long Phượng Trình Tường


    Tuy có những tiểu loại về tranh Hoa điểu nhưng khi sáng tác, các Họa gia hay kết hợp cây cỏ, điểu thú, trùng ngư lại để tạo nên một chủ đề nào đó cho bước tranh có một ý nghĩa riêng. 


陈之佛 鹤寿图
Trần Chi Phật - Hạc Thọ Đồ


Công bút họa

đăng 21:23 14-07-2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 22:22 20-07-2013 ]
Công Bút Họa được chia thành 2 loại:
a/ Bạch miêu họa 白描畫
Bạch miêu họa hay Công bút bạch miêu 工筆白描 là những bức tranh vẽ đường nét rõ ràng, chi li, dùng đơn sắc. Loại tranh này xuất hiện rất sớm ở Trường Sa tỉnh Hồ Nam thời chiến quốc. 
Bức Ngũ Mã Đồ của Lý Công Lân 
thời Bắc Tống đánh dấu cho sự phát triển toàn diện của thể loại này.


Một con ngựa trong số Ngũ Mã Đồ

Bức Vân Long Đồ của Trần Dung là một ví dụ khác của thể loại này.


《雲龍圖》 南宋 陳容 
Vân Long Đồ - Trần Dung (Nam Tống) 

b/ Trọng thải họa 重綵畫
Trọng thải họa hay Công bút trọng thải 工筆重綵 là loại tranh lấy ngũ sắc làm quan trọng. Việc phối màu và đường nét đạt đến mức tinh vi, sắc sảo. 




閑情 – 趙國經、王美芳 
Nhàn tình – Triệu Quốc Kinh và Vương Mỹ Phương

Có thể nói trọng thải họa tạo nên sức quyến rũ mạnh mẽ, đặc biệt thể loại này thường dùng để vẽ mỹ nhân hay các bức tranh hoa lá cây cỏ đầy sắc màu.

芙蓉錦雞圖
Phù Dung Cầm Kê Đồ
Tống Huy Tông (Nam Tống)

Tả ý họa

đăng 08:07 14-07-2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 22:23 20-07-2013 ]
Miêu 描 : Phỏng vẽ, nghĩa là trông bức vẽ nào hay chữ nào mà vẽ phỏng ra, viết phỏng ra cho giống vậy. Tả 寫: Phỏng theo nét bút. Như vẽ theo tấm ảnh đã chụp ra gọi là tả chân 寫真, vẽ theo hình vóc loài vật sống gọi là tả sinh 寫生. 
Ý 意: Ý chí. trong lòng toan tính gì gọi là ý. Trong văn thơ có chỗ để ý vào mà không nói rõ gọi là ngụ ý 寓意. 

Như vậy: 
Miêu tả là dùng nét vẽ hoặc lời văn mà vẽ lại, viết lại những điều mình thấy. 
Tả ý là Phỏng bằng nét bút theo ý chí của mình. 

Tả ý họa寫意畫 là phỏng vẽ một bức tranh theo ý của tác giả. Loại tranh này ngày nay còn gọi là Tranh Ấn Tượng, có các đặc điểm: 
- Tác giả dùng phép cường điệu để tạo sự thu hút mà không phải tuân theo qui tắc nào; 
- Bức tranh trực tiếp biểu hiện cảm xúc, cá tính của tác giả;
- Đường nét, bố cục của bức tranh có thể là đại khái gọi là đại tả ý họa 大寫意畫 hoặc chi tiết gọi là tiểu tả ý họa 小寫意畫
大寫意畫
Đại tả ý họa


李白行吟圖 - 宋 梁楷 
Lý Bạch Hành Ngâm Đồ - Lương Khải đời Tống


六祖斫竹图 - 樑楷
Lục Tổ Chước Trúc Đồ; - Lương Khải

Với những đường nét đơn sơ, Lương Khải tiên sinh họa nên hai nhân vật nổi tiếng đồng thời cho ta thấy được cái hồn của nhân vật trong tranh.
小寫意畫
Tiểu tả ý họa


明 朱瞻基 武侯高卧图 
Minh Chu Chiêm Cơ - Vũ Hầu Cao ngọa đồ

Bức trên vẽ con chim chi tiết, nhành cây thì đơn sơ. Bức dưới vẽ khóm trúc và gương mặt của nhân vật chi li hơn so với tranh Đại tả ý họa. 

Bích Họa

đăng 07:32 14-07-2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 20:48 21-07-2013 ]
Bích Họa xuất hiện từ rất sớm trong đời sống thời thượng cổ của người Trung Quốc. Thể loại tranh này có thể chia làm ba nhóm lớn:
1/ Mộ thất bích hoạ. 墓室壁畫 
Các nhà khảo cổ phát hiện nhiều bức bích họa có trên các lăng tẳm, ngôi mộ cổ từ thời đại Tần - Hán. Nội dung bức tranh thường thể hiện các hình ảnh về tâm linh hoặc về các sự kiện, nhân vật…. 



玄武圖 
Huyền vũ đồ 



徐顯秀墓壁畫 
Từ Hiển Tú mộ bích hoạ 



2/ Đôn Hoàng bích họa 敦煌壁畫 

Đặc biệt trong thể loại này có một loạt tranh về Phật giáo được phát hiện trong 492 hang động ở trung tâm thành phố Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc gọi là Đôn Hoàng Bích họa 敦煌壁畫. 


3/ Vĩnh lạc cung bích hoạ 永樂宮壁畫 
Đại diện cho thể loại bích họa được vẽ trong các cung thất. Đây là nơi trình bày nhiều bức tranh trên tường, khởi thủy xây dựng ở trấn Vĩnh Lạc (thuộc tỉnh Sơn Tây) từ năm 1240 thời nhà Nguyên, đến năm 1358 toàn bộ công trình cơ bản hoàn thành.




Thủy mặc họa

đăng 07:00 14-07-2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 17:34 18-07-2013 ]
Thuỷ mặc hoạ  là loại tranh truyền thống của Trung Quốc, còn gọi là Quốc Họa (tức Tranh Nước Trung Quốc) và nó lan truyền sâu rộng trong các nước ở Châu Á. Xưa, mực chỉ có màu đen, ta hay gọi là mực tàu, nhưng ngày nay mực có nhiều màu sắc nên tranh thủy mặc tăng thêm sự quyến rũ và phong phú. Tranh Thủy mặc được vẽ trên giấy hoặc lụa có thể treo lên vách hoặc cuộn lạ thành cuốn nên rất tiện cho việc cất giữ và bảo quản. Có những bức tranh thủy mặc được người chết "mang theo" trong mộ của mình mà đời sau khai quật phát hiện được.
Các họa gia vẽ tranh thủy mặc nổi tiếngVương DuyTô Đông PhaTề Bạch ThạchTừ Bi Hồng

王维诗意图
Vương Duy Thi Ý Đồ
蘇軾疊嶂詩圖 
Điệp Chướng Thi đồ - Tô Thức

Sơ lược các thể loại tranh Trung Quốc

đăng 01:28 11-07-2013 bởi Lỗ Bình Sơn   [ đã cập nhật 17:33 18-07-2013 ]
    
Hội 繪 là vẽ, Họa 畫 là bức tranh. Hội họa là vẽ một bức tranh. Về từ ngữ thì đơn giản là vậy nhưng để thưởng thức một bức tranh Trung Quốc, trước tiên ta cần biết qua các thể loại tranh. Tuy nhiên, việc phân loại tranh cũng có nhiều cách. Qua tìm hiểu tôi xin phân loại tranh theo ba tiêu chí chính sau:

1/ Phân loại theo chất liệu:
    
    Căn cứ theo chất liệu tạo nên bức tranh thì có hai loại chính:
    a/ Thủy Mặc Họa 水墨畫: Thủy nghĩa là nước, mặc nghĩa là mực. Tranh thủy mặc (đôi khi gọi trại là Tranh Thủy Mạc) là tranh vẽ bằng mực nước.
    b/ Bích Họa 壁畫:  là loại tranh được vẽ trên tường, nó xuất hiện từ rất sớm trong đời sống thời thượng cổ của người Trung Quốc. 


2/ Phân loại theo kỹ pháp
      Kỹ thuật và phương pháp hội họa Trung Quốc rất đa dạng. Dưới gốc độ tổng quát, có hai kỹ pháp 技法 (lấy thủ pháp làm cơ sở) chi phối nền hội họa Trung Quốc và cũng là phương pháp hội họa đặc thù của Phương Đông, đó là: 

    a/ Tả Ý họa 寫意畫:  là phỏng vẽ theo ý của tác giả, loại tranh này ngày nay còn gọi là Tranh Ấn Tượng    b/ Công Bút họa 工筆畫: Là những bức tranh được vẽ tỉ mi công phu và chi tiết, chú trọng vào kỹ thuật. 


3/ Phân loại theo nội dung
    Về nội dung Hội hoạ Trung Hoa thể hiện ba phạm trù bao quát:

    a/ Hoa Điểu họa: Nội dung của tranh hoa điểu rất phong phú, đa dạng như chim chóc, hoa cỏ hay các loài vật. Tùy theo sở thích hay sở trường của họa gia mà họ chọn một hoặc một vài loài vật cụ thể để sáng tác.
    b/ Sơn Thuỷ hoạ 山水畫: Tranh sơn thủy hay Tranh phong cảnh là những bức tranh vẽ lên những cảnh quan sông, núi khi thì hùng vĩ, khi thì tĩnh lặng. Đây là loại tranh tiêu biểu nhất của Trung Quốc.
    c/ Nhân Vật họa 人物畫: Vẽ tranh nhận vật đã có lâu đời, xuất hiện sớm nhất có lẽ từ thời nhà Thương, đó là sự kiện trong Kinh Thư, thiên Duyệt Mệnh說命: vua Cao Tông nhà Thương mộng thấy hiền thần rồi truyền cho vẽ tranh để tìm kiếm khắp trong thiên hạ. Cuối cùng tìm gặp người giống như bức họa tên là Duyệt ở đất Phó Nghiêm, nhà vua bèn lập ông làm Tể Tướng lấy tên đất làm họ nên gọi ông là Phó Duyệt. Nhân vật trong tranh thường là các chân dung nhân vật lịch sử như Danh thần tướng lĩnh, văn nhân thi sĩ, đặc biệt là các bức mỹ nhân.

    Thông qua các nội dung trên mà các hoạ gia trình bày tác phẩm hội hoạ theo một Chủ đề cụ thể như nói về phong tục, tôn giáo tín ngưỡng, các loài vật, hoa cỏ trong thiên nhiên ... Do vậy, trong một bức hoạ có khi thì chỉ vẽ đơn thuần một nội dung, có khi thì tổng hoà các nội dung với nhau làm cho nội dung của bức hoạ phong phú và đa dạng nhưng hàm nghĩa sâu xa.
read more...