Hiển thị các bài đăng có nhãn Y HỌC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Y HỌC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 23 tháng 5, 2012

NGƯU HOÀNG 2

NGƯU HOÀNG 2

Nguồn: 
http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/baocheduoc/htmdocs/NguuHoang.htm 
Tên thuốc: Calculus Bovis.
Tên khoa học: Calculus Bovis
Ngưu hoàng là sạn (sỏi) thấy trong túi mật của con bò có bệnh (Bos tarus var. domesticus Gmellin) hay con trâu có bệnh (Bubalus bubalis L), nhưng thường thấy ở con bò hơn. Con trâu, con bò bị ốm đau, gầy, ngơ ngác, mắt đỏ, lông dựng đứng, hay uống nước, sợ người, khi đi đẩu quay nghiêng, đứng nằm thở khò khè, có người nhận xét buổi sớm nó hay nhìn ngơ ngác về phía đông. Có người cho rằng: để chậu nước trước mặt nó soi bóng, ta hét to lên một tiếng nó nhả Ngưu hoàng ra chậu. Loại Ngưu hoàng này tốt hơn thứ mổ túi mật ra mà lấy.
Khi mổ trâu, bò lấy túi mật ta chú ý nắn túi và ống mật hễ thấy có cục cứng thì nên sớm rạch túi mật ra, lọc qua rây, lấy mật riêng và Ngưu hoàng riêng. Nếu để lâu, dịch mật ngấm vào Ngưu hoàng sẽ làm Ngưu hoàng đen, phẩm chất kém.
Khi lấy được Ngưu hoàng rồi, rửa qua rượu, bọc kín phơi râm cho đến khi khô. Có người rửa rượu rồi thì tẩm nước gừng loãng, rồi treo phơi râm cho khô. Gói vào giấy bóng kính đựng vào hộp kín, dưới có lót vôi sống để hút ẩm. Không được phơi nắng hay sấy lửa, không được phơi ở chỗ có gió mạnh và không để ra ánh sáng, nếu không Ngưu hoàng bị nứt vỡ, sậm đen lại. Ngưu hoàng có khi to bằng quả trứng gà, bé thì bằng hạt sạn, sắc vàng, đắng, thơm, xốp nhẹ, không nứt vỡ, không đen sẫm là tốt.
Hiện nay còn có Ngưu hoàng tổng hợp bán ở thị trường quốc tế.
Thành phần hoá học: có acid colic, cholesterol, ergosterol, acid béo, este phosphoric, bilirubin, vitamind, muối calci, chất sắt, đồng, có loại còn có carotenoid và các acid amin.
Tính vị: vị đắng, tính bình.
Quy kinh: Vào kinh Tâm và Can.
Tác dụng: thanh Tâm, giải độc, thông khiếu, tiêu đờm, định kinh.
Chủ trị: trị sốt cao phát cuồng, nói mê, trị kinh giản.
- Hôn mê và co giật do sốt cao: Dùng Ngưu hoàng với Hoàng liên, Tê giác và Xạ hương.
- Ðau Họng hoặc loét và nhọt do tính nhiệt độc: Dùng Ngưu hoàng với Thanh đại và Kim ngân hoa.
Liều dùng: Ngày dùng 0,3 - 0,6g
Cách Bào chế: Khi dùng lấy ra tán bột. Dùng đến đâu tán nhỏ đến đó và nên dùng ngay.
Bảo quản: rất dễ vỡ, vụn nát. Cần bọc bông, lụa để vào hộp sắt, lọ kín có lót chất hút ẩm (silicagel, vôi sống...). Tránh ẩm, tránh va chạm, đè nén.
Kiêng ky: phụ nữ có thai không nên dùng vì làm trụy thai. Bệnh nhân thể hàn không nên dùng
Phải thừa nhận Ngưu Hoàng chữa đột quỵ (stroke), nói chính xác hơn là chữa tai biến mạch máu não (TBMMN) rất tốt. Nhưng chỉ có tác dụng trong vòng 24-72 tiếng đầu. Khi bị đột quỵ do tai biến uống luôn thì tác dụng rõ rệt, bệnh đã lâu không có tác dụng
Nhiều nhà thuốc bên Trung Quốc bào chế An Cung có hàm lượng Ngưu Hoàng là 128mg. Giá bán ~700 tệ/3 viên có Ngưu Hoàng tự nhiên (?). Còn Ngưu Hoàng tổng hợp có giá ~300 tệ/3 viên. Nhiều người Việt Nam đi du lịch, công tác mua về làm quà hoặc cất giữ như bào bối nhưng chắc gì mua được thuốc có thành phần Ngưu Hoàng tự nhiên vì người Tàu giỏi nhất thế giới về công nghệ sản xuất hàng giả, mặt khác không biết dùng thì thuốc đâu có tác dụng.
Có một số lò mổ trâu bò của Việt Nam ta không hiểu về Ngưu hoàng nên có lúc vô tình gặp được khi mổ trâu bò nhưng vứt bỏ, thật đáng tiếc, tôi khuyên chân thành tất cả những ai nếu đã hiểu biết về nó, khi gặp nên giữ lại như hướng dẫn nói trên, là vị thuốc tuyệt hay để phòng cho gia đình. Ai cũng có thể sử dụng được nó ngoại trừ người đang mang thai và những người thể trạng hàn bệnh.
read more...

Ngưu Hoàng, Đông Y, Trung Y, Thuốc Bắc: Giai thoại về công dụng của Ngưu Hoàng

Ngưu Hoàng, Đông Y, Trung Y, Thuốc Bắc: Giai thoại về công dụng của Ngưu Hoàng
Tác giả: Thiên Nhất

[Chanhkien.org] Trong y học Trung Quốc, Ngưu Hoàng thường được sử dụng để chữa trị các loại bệnh về răng miệng. Nó có tác dụng đặc biệt đối với các bệnh như đau răng, viêm lợi. Các nha sĩ phương Tây sử dụng các thiết bị phức tạp và dược phẩm, trong khi các bác sĩ Trung Quốc có thể chữa các loại bệnh cấp về răng miệng bằng Ngưu Hoàng.
Ở Trung Quốc, Ngưu Hoàng đã được dùng như một loại thuốc trong hơn hai nghìn năm qua. Cuốn từ điển cổ ngữ về các loại thảo mộc cơ bản của Thần Nông đã phân các loại thuốc Trung Quốc thành nhiều hạng khác nhau và xếp Ngưu Hoàng vào hạng được đánh giá cao nhất. Vì Ngưu Hoàng có thể hạ sốt và giải độc, nó thường được sử dụng để chữa sốt cao, bất tỉnh (ngất xỉu), chứng co giật, đột quỵ, động kinh, và những bệnh khác.
Ngưu Hoàng là một loại sỏi kết thành trong mật một con bò cái bị ốm. Khi bị đau đớn vì nó, con bò trở nên gầy mòn, ăn ít cỏ, và cần uống nhiều nước. Nó không đủ khoẻ để bước đi và mắt của nó chuyển sang màu đỏ. Cuối cùng nó chết vì ốm. Ngưu Hoàng hình thành một cách tự nhiên là thường được tính theo giá của cuộc đời của một con bò, và vì thế mà nó rất đắt.
Có một câu chuyện thú vị về Biển Thước và Ngưu Hoàng. Biển Thước là một thầy thuốc nổi tiếng thời Trung Quốc cổ đại, là người có khả năng siêu phàm và chữa khỏi bệnh cho rất nhiều người. Một ngày nọ, Biển Thước kiếm được một viên Thanh Mông thạch (một dạng khoáng chất do quá trình axít hoá) cho người hàng xóm của mình, ông Cố Dương Văn. Biển Thước dự tính nghiền nó thành bột để chữa bệnh đột quỵ và bệnh liệt của ông Cố Dương Văn. Bỗng nhiên, Biển Thước nghe thấy những tiếng động bên ngoài nhà mình và ông hỏi nguyên nhân. Dương Bảo, con trai của Dương Văn, đang bảo một người giết một con bò cái 10 năm tuổi của nhà họ Dương, con vật đã bị ốm từ 2 năm trước. Sau khi con bò cái bị giết, Dương Bảo tìm thấy một viên sỏi trong túi mật của nó. Biển Thước chú ý đến viên sỏi và hỏi Dương Bảo liệu ông có thể lấy nó không. Dương Bảo cười và bảo, “Đại phu, ông muốn dùng nó để làm thuốc hả?” thì lấy đi, Sau đó ông đặt viên sỏi bên cạnh viên Thanh Mông thạch.
Lúc này,tự nhiên Dương Văn bị đột quỵ. Biển Thước nhào tới ông ta và nhìn vào mắt ông ta đang trợn ngược lên, nôn khan, chân tay ông ta thì lạnh, hơi thở thì ngắn. Ông ta đang trong tình trạng nguy kịch. Biển Thước nói với Dương Bảo, “Nhanh lên, mau đưa cho ta viên Thanh Mông thạch mà ta để ở trên bàn”. Dương Bảo chạy tới nhà Biển Thước và mang thuốc về. Biển Thước không có thời giờ để xem nó rồi nhanh chóng nghiền nó thành bột. Sau đó ông ước lượng một thang và cho Dương Văn uống. Chẳng mấy chốc, Dương Văn dứt cơn co giật, hơi thở trở nên ổn định, và ông ta đã khôi phục sự tỉnh táo.
Khi Biển Thước trở về nhà, ông phát hiện ra viên Thanh Mông thạch vẫn còn ở trên bàn, trong khi Ngưu Hoàng thì biến mất. Ông hỏi người nhà, “Ai đã lấy Ngưu Hoàng đi rồi?”. Người nhà ông nói, “Dương Bảo đến để lấy thuốc và anh ta bảo làm theo những gì ông bảo”. Sự ngẫu nhiên này khiến cho Biển Thước suy nghĩ, “Phải chăng Ngưu Hoàng có khả năng làm hết khó thở và điều hòa hệ thống hô hấp?” Ngày hôm sau, ông chủ tâm sử dụng Ngưu Hoàng trong thuốc của Dương Văn thay thế cho Thanh Môn thạch. Ba ngày sau, tình trạng của Dương Văn cải thiện một cách thần kỳ. Ông ta không chỉ hết co giật mà còn cử động được tay chân bị liệt của mình.
Từ trường hợp này, Biển Thước kết luận, “Do Ngưu Hoàng được ngâm trong túi mật của con bò trong một thời gian dài, vì vậy tính hàn của nó có thể thấu tới tim và gan của người bệnh. Nó có thể lọc tim, thông các mạch, điều hòa gan và chữa liệt”.
Lời bàn: Lý luận Đông y học và những bài thuốc kinh nghiệm của đông y rất có giá trị, ở nước ta, ngoài việc vận dụng kiến thức đông y của Trung quốc, các danh nhân như Tuệ Tĩnh, Hải thượng lãn ông (Lê Hữu Trác)... còn hoàn thiện các nghiên cứu về dùng thuốc nam chữa bệnh cho người nam...chỉ tiếc là một thời gian dài, nhà nước ta không quan tâm đến đông y nên sự định hướng phát triển ngành đông y còn nhiều hạn chế và khó kiểm soát bởi thực tế bây giờ: Các nhà thuốc hầu như chỉ bốc thuốc lấy tiền, các vị thuốc tốt hoặc bị hỏng không thể kiểm soát được, cách chế biến thuốc và bảo quản thuốc có đúng hay không cũng không biết, bởi không ai kiểm soát được. Dân ta đang sống cùng với lũ, giống như đang dùng các sản phẩm rau quả thực phẩm... mà khó phân biệt được chất lượng vậy....
read more...

Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012


An Cung Ngưu Hoàng Hoàn:   Đồng Nhân Đường Bắc Kinh-  An Cung Ngưu Hoàng Hoàn

Tai biến mạch máu não (TBMMN) dẫn tới đột quỵ là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong và tàn phế nghiêm trọng đối với con người. Khoảng thời gian từ lúc đột quỵ xuất hiện cho đến khi bắt đầu được điều trị là cực kỳ quan trọng (thời gian vàng), quyết định đến sự sống còn của người bệnh cũng như khả năng hồi phục sau tai biến.

Bài thuốc An Cung Ngưu Hoàng Hoàn (ACNHH) của Đồng Nhân Đường Bắc Kinh đã từ lâu nổi tiếng trên thế giới như là thần dược cho bệnh nhân TBMMN. Đây chính là bài thuốc cấp cứu hiệu quả nhất trong Đông Y, được dùng trong các trường hợp trước và sau TBMMN. Đặc biệt nên dùng trước và kịp thời ngay khi bệnh nhân có những biểu hiện đột quỵ như: Huyết áp cao từ 190/150 trở lên; Sốt cao, hôn mê, nói nhảm; Đột ngột khó nói hoặc khó hiểu lời người khác nói; Đột ngột giảm thị lực, mắt bị mờ; Đau đầu đột ngột, dữ dội, liên tục, mất kiểm soát động tác, co giật, lệch mồm, nôn hoặc buồn nôn; Liệt nửa người…

Chính vì sự nguy hiểm, tính bất ngờ của đột quỵ, hiệu quả thần kỳ của ACNHH và tính quan trọng quyết định của “thời gian vàng”, mỗi gia đình nên có ít nhất một viên ACNHH sẵn trong nhà để có thể yên tâm hơn.

Xin giới thiệu An Cung Ngưu Hoàng Hoàn được sản xuất bởi Đồng Nhân Đường Bắc Kinh:
Add: 46, Xidamochang Street, Chongwen District, Beijing, China.
Tel: (010) 67025631
Fax: (010) 67018048
Website: http://www.tongrentang.com

Đây là sản phẩm An Cung Ngưu Hoàng Hoàn loại nội địa Trung Quốc, bao bì hộp 10 viên, được bày bán tại cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Đồng Nhân Đường Bắc Kinh.

Mẫu SP được sản xuất ngày 23/1/2010, hạn sử dụng đến tháng 12/2014, loại hộp 10 viên:





So sánh với ảnh được chụp trực tiếp tại cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Đồng Nhân Đường Bắc Kinh đầu năm. (Giá niêm yết là 350 NDT/viên):



Xem thêm về thông tin Đồng Nhân Đường Bắc Kinh và một số loại ACNHH khác.

Hình ảnh các loại ACNHH tại website chính thức của Đồng Nhân Đường Bắc Kinh

Hộp nhung 1 viên:













(Mặt sau của viên thuốc có hình ngôi sao rất mờ)

read more...

An cung Ngưu hoàng hoàn: Sự thật về một “thần dược”


An cung Ngưu hoàng hoàn: Sự thật về một “thần dược” 

"Thiên hạ" đang kháo nhau về một loại “thần dược” có tác dụng phòng tai biến mạch máu não (TBMMN) - một loại bệnh thường gặp và là nỗi lo lắng thường trực của người cao tuổi. Sự thật về loại thuốc này như thế nào?

Có tác dụng hỗ trợ chữa bệnh...

Đây là một loại thuốc có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc, dạng viên, bên ngoài được bao bọc bằng sáp, một liều là 3 viên (giá một viên thuốc này là từ 800.000 - 1 triệu đồng/viên). Theo như lời đồn của không ít người dân thì, chỉ cần uống hết một liều thuốc này có thể phòng ngừa tai biến ít nhất là 3 năm trở lên.

TS.Trần Quốc Bình - Giám đốc BV Y học cổ truyền Trung ương, cho biết, tên đầy đủ của thuốc này là “An cung Ngưu hoàng hoàn”. Đây là loại thuốc nổi tiếng chữa “trúng phong” trong y học cổ truyền (mà nay y học hiện đại gọi là “tai biến mạch máu não”) với các biểu hiện méo miệng, liệt nửa người...

Tuy nhiên, trúng phong có 2 dạng: trúng phong kinh lạc và trúng phong tạng phủ. Nếu trúng phong kinh lạc thì không hôn mê, còn trúng phong tạng phủ thì có hôn mê. Thuốc này, về lý thuyết, có thể dùng được cho cả người lớn và trẻ em, nhưng với liều dùng nghiêm ngặt. Với người lớn, ngày dùng 1-2 viên trong giai đoạn cấp có tác dụng khai khướu, tỉnh thần, tức là làm tỉnh táo và hạn chế cơn trúng phong, chống co giật, chống liệt.

Mô tả ảnh.
Theo như lời đồn của không ít người dân thì, chỉ cần uống hết một liều thuốc này có thể phòng ngừa tai biến ít nhất là 3 năm trở lên.

Với sự phát triển của y học, hiện nay, TS Bình cho hay, thuốc “An cung ngưu hoàng hoàn” được vận dụng điều trị trong TBMMN, chấn thương sọ não giai đoạn cấp hoặc viêm não giai đoạn cấp (nhưng dùng kết hợp với thuốc cấp cứu của y học hiện đại). Thông thường, liều dùng là 3 viên trong 3 ngày. Trường hợp nặng, có thể dùng 1-2 viên/ngày. Nhiều trường hợp TBMMN, bên cạnh điều trị theo phác đồ của y học hiện đại, dùng “An cung ngưu hoàng hoàn” trong 15 ngày giai đoạn cấp có hiệu quả rất tốt.

... nhưng không phải là vắc-xin

TS Trần Quốc Bình khẳng định, công dụng của thuốc “An cung ngưu hoàng hoàn” là có thật. Tuy nhiên, việc nói uống 3 viên để phòng ngừa TBMMN trong 3 năm trở lên là không có cơ sở khoa học, bởi vì thuốc này không phải như vắc xin để phòng bệnh. TS Bình cho biết thêm, việc điều trị dự phòng có thể áp dụng trong điều kiện cụ thể như: Người huyết áp cao tự dưng thấy khó chịu, đau đầu, chóng mặt, chân tay tê tê, yếu dần, giọng nói hơi líu..., tức là báo hiệu sắp có tai biến thì có thể uống chặn một viên. Việc uống chặn có thể phòng ngừa được cơn tai biến lúc đó, chứ không có nghĩa là phòng được trong thời gian dài vài năm.

Thuốc không có nhiều tác dụng phụ, nhưng người không có bệnh thì không nên dùng. Người không nhiệt, không đàm bế, tức là trụy tim mạch thì phải hồi sức cấp cứu chứ không dùng thuốc này. Phụ nữ có thai cũng không được dùng thuốc này. Người có bệnh đại tràng mãn tính (hay đi phân lỏng) cần chú ý khi dùng vì sẽ dễ đi lỏng hơn. Đặc biệt, dù có bệnh cũng không dùng kéo dài vì một số vị thuốc trong “An cung ngưu hoàng hoàn” - ngoài việc điều trị bệnh, rất có hại cho cơ thể.

Điều cần lưu ý, thuốc An cung ngưu hoàng hoàn trôi nổi trên thị trường nhiều loại khác nhau, chất lượng cũng khác nhau. Ngay ở Trung Quốc cũng có nhiều cơ sở sản xuất thuốc này và chất lượng ở các cơ sở là không giống nhau. Do thuốc nổi tiếng nên hàng giả, hàng nhái cũng nhiều. Vì vậy, để đảm bảo trong việc điều trị bệnh, chỉ nên mua ở những cơ sở, qua những thầy thuốc tin cậy - TS.Bình khuyến cáo.

Thực tế, trong quá trình điều trị cho bệnh nhân, PGS.TS.Nguyễn Quang Tuấn, trưởng khoa C4, Viện tim mạch Quốc gia thừa nhận, khi bị tai biến rồi, một số người dùng thuốc này (bên cạnh điều trị theo thuốc tây y) cũng có tác dụng tốt (hồi phục nhanh hơn).

Tuy nhiên, tác dụng uống để phòng tai biến thì PGS Tuấn chưa nghe thấy bao giờ. Bởi vậy, PGS Tuấn cũng khuyến cáo người dân không nên dùng thuốc này để phòng ngừa tai biến, vì điều này chưa được nghiên cứu trên người Việt Nam.

Để phòng ngừa TBMMN hiệu quả, điều cần nhất là kiểm soát chứng béo phì, đưa cân nặng trở về mức trung bình, kiểm soát tốt huyết áp, điều trị bệnh đái tháo đường (nếu có).

Theo H.L.
Pháp luật Việt Nam
read more...

An cung ngưu hoàng hoàn: 安宫牛黄丸


An cung ngưu hoàng hoàn: 安宫牛黄丸



an cung nguu hoang hoan

ACNHH là gì?
Là phương thuốc do danh y Ngô Đường, tự Cúc Thông, người đời Thanh (Trung Quốc), đại biểu trọng yếu của học phái ôn bệnh, sáng chế, được ghi trong sách “Ôn bệnh điều biện” nổi tiếng của ông với thành phần gồm: ngưu hoàng 1 lạng, uất kim 1 lạng, tê giác 1 lạng, hoàng cầm 1 lạng, hoàng liên 1 lạng, hùng hoàng 1 lạng, sơn chi 1 lạng, chu sa 1 lạng, mai phiến 2 tiền 5 phân, xạ hương 2 tiền 5 phân, trân châu 5 tiền. Tất cả tán bột thật mịn, dùng mật làm hoàn, mỗi hoàn 1 tiền, lấy vàng lá làm áo, bao sáp. Hiện nay, vì tê giác rất hiếm nên được thay bằng thủy ngưu giác (sừng trâu nước).


Một hộp thuốc an cung ngưu hoàng hoàn.


Công dụng của ACNHH ra sao?

Theo dược học cổ truyền, ACNHH có công dụng thanh nhiệt giải độc, trấn kinh khai khiếu, dục đàm. Chuyên trị ôn nhiệt bệnh, nhiệt tà nội hãm tâm bào, đàm nhiệt ủng bế tâm khiếu dẫn đến sốt cao phiền táo, thần hôn thiềm ngữ (hôn mê, rối loạn ngôn ngữ) hoặc thiệt kiển chi quyết (lưỡi rụt, tay chân giá lạnh), trúng phong khiếu bế, tiểu nhi kinh quyết thuộc đàm nhiệt nội bế.

Đây là một trong ba phương thuốc lương khai trọng yếu (lương khai tam bảo hay ôn bệnh tam bảo) cùng với chí bảo đan và tử tuyết đan, là một trong những dược vật cấp cứu hữu hiệu của Y học cổ truyền. “Cung” là chỉ tâm bào, tâm bào là cái màng ở ngoài bọc lấy tim; ôn nhiệt độc tà nội hãm, khi xâm phạm vào tâm, trước hết là tác động đến tâm bào. Nếu nhiệt tà quá thịnh sẽ làm nhiễu loạn thần minh mà dẫn đến tình trạng thần hôn thiềm ngữ. ACNHH có đủ khả năng thanh hóa đàm nhiệt nội hãm tâm bào, nhiệt thanh đàm hóa thì tâm thần tất an, vì thế mà gọi là “an cung”.

Trong phương, ngưu hoàng, tê giác và xạ hương có công dụng thanh tâm tả hỏa giải độc, dục đàm khai khiếu, tức phong định kính, là quân dược; hoàng cầm, hoàng liên, sơn chi thanh nhiệt tả hỏa giải độc; uất kim tán tà hỏa; mai phiến phương hương khứ uế, thông khai bế; chu sa, trân châu và vàng lá trấn tâm an thần; mật ong hòa vị điều trung.

Tác dụng dược lý của ACNHH là gì?

Tác dụng trấn tĩnh và chống co giật

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, ACNHH khi cho chuột uống hoặc tiêm vào trong ổ bụng đều làm cho chúng giảm thiểu hoạt động tự chủ, xuất hiện hiện tượng yên tĩnh, làm tăng tác dụng ức chế hệ thống thần kinh trung ương và kéo dài thời gian gây ngủ của phenobarbital và pentothal. ACNHH còn chống tác dụng hưng phấn và gây co giật của amphetamin và làm giảm thấp tỷ lệ tử vong do thuốc này gây nên.

Tác dụng hồi tỉnh

Khi tiêm vào ổ bụng của chuột bạch 0,8 – 1ml thanh khai chú xạ dịch, một chế phẩm của ACNHH, liên tục trong 5 ngày, nhận thấy hoạt tính của acetylcholin esterase trong nhân lục (locus cerulerus) gia tăng, chứng tỏ hoạt tính của acetylcholin trong nhân lục có thể kích phát hoạt tính của catecholamine trong các neuron, làm hồi phục công năng hướng tâm của cấu trúc lưới trong chất não, từ đó đạt được tác dụng hồi tỉnh. Nghiên cứu thực nghiệm cũng đã chứng minh tác dụng bảo vệ tế bào gan khỏi sự tác động bất lợi của carbon tetrachloride, làm hồi tỉnh hôn mê gan do nhiễm độc.

Tác dụng giải nhiệt

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh ACNHH có tác dụng làm hạ thấp thân nhiệt của thỏ được gây sốt bằng độc tố của vi khuẩn, tác dụng kéo dài từ 5 – 6 giờ, so với nhóm chứng có sự khác biệt rõ rệt. Nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh tác dụng giải nhiệt của ACNHH trong các trường hợp sốt do tiêm vắc-xin tam liên, thông thường sau khi tiêm vắc-xin chừng 60 phút thân nhiệt tăng cao, dùng ACNHH có thể làm cho thân nhiệt giảm rất nhanh.

Tác dụng chống viêm tiêu thũng

Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cũng đã chứng minh tác dụng rõ rệt của ACNHH đối với tình trạng viêm khớp ở chuột. Trên mô hình gây viêm tai chuột bằng dinathylbenzene, ACNHH tỏ ra có tác dụng ức chế rõ rệt quá trình viêm. ACNHH còn có tác dụng kích thích khả năng thực bào của đại thực bào, làm tăng chỉ số và tỷ lệ % thực bào, làm cho đại thực bào to ra và gia tăng số lượng các túi thực bào.

Tác dụng đối với hệ tim mạch

Kết quả nghiên cứu cho thấy, ACNHH có tác dụng làm hạ huyết áp trên động vật thí nghiệm từ 5,4 – 7,5 kPa. Trên tim thỏ cô lập, ACNHH có khả năng ức chế sức co bóp cơ tim và làm giảm tần số tim. Trên chó gây mê, ACNHH làm chậm nhịp tim, hạ huyết áp nhưng lưu lượng động mạch vành và sức bóp cơ tim lại gia tăng. Chứng tỏ thuốc có khả năng cải thiện công năng tim. Ngoài ra, ACNHH còn có tác dụng làm giảm lượng oxy tiêu thụ cơ tim, kéo dài thời gian sống của động vật thí nghiệm trong điều kiện thiếu oxy.
read more...

Chủ Nhật, 22 tháng 4, 2012

Nhân Điện: Y học bổ sung và Sức khỏe cộng đồng

Nhân Điện: Y học bổ sung và Sức khỏe cộng đồng

Hội thảo Unesco Việt Nam về đề tài "Y học bổ sung & Sức khỏe cộng đồng". Trong nội dung hội thảo có đề cặp đến ứng dụng lợi ích của "Trường Sinh Học" ( Nhân điện) vào sáng ngày 25-2-2010 tại TP HCM




read more...