Hiển thị các bài đăng có nhãn THÔNG TIN MỸ THUẬT SỐ 17-18. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn THÔNG TIN MỸ THUẬT SỐ 17-18. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 30 tháng 5, 2012

Mỹ thuật dân gian: Tranh Sình

Mỹ thuật dân gian: Tranh Sình 

Tác giả: Trần Đức Anh Sơn


Xiêm, hình đàn ông (tranh Sình ngày trước)  

Xiêm, hình đàn ông (tranh Sình hiện đại) 

Xiêm, hình đàn bà (tranh Sình ngày trước) 

Cạnh ngã ba Sình, điểm hợp lưu giữa sông Bồ với sông Hương, có một làng chuyên nghề in tranh mộc bản, tạo nên một dòng tranh nổi tiếng ở đất Huế suốt mấy trăm năm nay: tranh Sình. Làng Sình, tên chữ là làng Lại Ân, nay thuộc xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, là một trong những làng hình thành khá sớm của xứ Thuận Hóa. Tác phẩm Ô châu cận lục do Dương Văn An nhuận sắc vào thế kỷ XVI đã nhiều lần đề cập địa danh Lại Ân như là một làng quê trù phú, hưng thịnh về giao thương: “Xóm Lại Ân canh gà xao xác- giục khách thương mua một bán mười” hay “Bát đĩa sứ ở Thế Lại, Lại Ân giá bán rất đắt”,… Ngày nay, làng Sình được biết đến như một làng văn vật của đất cố đô, nơi còn lưu giữ nghề làm tranh cổ truyền và một hội vật nổi tiếng, tổ chức vào ngày mồng mười tháng giêng âm lịch hàng năm: “Dù ai đi đó đi đây- Đến ngày Hội vật nhớ quay về Sình”.


Xiêm, hình đàn bà (tranh Sình hiện đại) 

Phền, hình bé gái (tranh Sình ngày trước) 

Phền, hình bé gái (tranh Sình hiện đại)

Tranh Sình, về cơ bản là dòng tranh thờ cúng dân gian. Khác với dòng tranh Đông Hồ có chủ đề quán xuyến hầu hết mọi mặt của đời sống và tinh thần của cư dân vùng châu thổ Bắc bộ với lối biểu đạt trào lộng và dí dỏm, tranh Sình dường như chỉ tập trung vào hai công năng: thờ và cúng, nghĩa là chỉ chuyên phụng sự đời sống tâm linh của người dân vùng Huế mà thôi.
Tranh thờ là những bức tranh nhân vật (1) được cung thỉnh trên các trang ông, trang bà, trang bếp,… trong nhà người dân xứ Huế với tư cách là những vị thần bổn mạng, bảo trợ cho gia chủ. Đó còn là những bức tranh đồ vật (khí dụng, cung tên,…) hay súc vật (trâu, bò, heo, ngựa,…) được thờ phụng ở những nơi xác định (miếu tổ nghề, chuồng gia súc,…), trong một khoảng thời gian nhất định (lâu nhất là một năm) để cầu mong cho nghề nghiệp được phát triển, hưng vượng; hay cầu cho vật nuôi hay ăn chóng lớn, tránh được tai ương dịch bệnh.


Tranh cúng thủy phủ (tranh Sình hiện đại)  

Tượng bà Thủy (Mẫu Thoải) (tranh Sình hiện đại) 

Áo ông (tranh Sình hiện đại) 

Tranh cúng là những bức tranh thế mạng cho người sống; các thứ áo ông, áo bà, áo binh; các loại giấy tiền, giấy vàng bạc,… là những vật phẩm dâng cúng trong các cuộc tế lễ, cầu đảo (2) và sẽ được đốt (hóa vàng) ngay sau khi cúng tế.
Cũng vì cái “công dụng nhất thời” này nên trong quá trình sáng tạo dòng tranh này, đặc biệt là tranh cúng, các nghệ nhân làng Sình đã không quan tâm đúng mực đến tính thẩm mỹ và sự tinh tế như các đồng nghiệp của dòng tranh Đông Hồ ở Bắc Ninh.


Đấu vật (tranh Sình ngày trước)

Về chủ đề, có thể chia tranh Sình thành ba nhóm chính:
- Tranh nhân vật: Gồm các loại tượng Bà, tượng Bếp; con ảnh; ông Điệu, ông Đốc;... Tượng Bà là những bức tranh thờ trên những chiếc trang bà treo trên xà nhà, gọi là trang bổn mạng. Bà sẽ là người giúp đỡ và giải hạn cho nữ gia chủ (3). Bà bổn mạng trên tranh Sình thường được thể hiện trong hình tướng của một nữ nhân cưỡi trên lưng voi, ở trong một khung hình chữ nhật (tượng trưng cho ngôi chùa với hai câu đối chữ Hán ở hai bên và bức liên ba ở trên đầu), phía sau có hai thị nữ cầm quạt đứng hầu (tượng chùa); hoặc chỉ cưỡi voi và có thị nữ hầu cận (tượng ngang), hoặc ngồi trên một đài cao (tượng đế). Tượng Bếp (cũng gọi là tờ Bếp) là những bức tranh in hình ba người ngồi trên trang bếp là bà Thổ Kỳ (ở giữa) và hai ông Thổ Công và Thổ Địa (ở hai bên); xung quanh là hình các khí dụng, vật phẩm, kẻ hầu người hạ. Con ảnh là những “tờ thế mạng”, gồm ảnh xiêm in hình người đàn ông hoặc đàn bà để cầu đảo để thế mạng cho người lớn, và ảnh phền in hình bé trai hoặc bé gái để thế mạng cho trẻ em. Ngoài ra còn có các bộ tranh thờ thần để cầu an cho người như tiên sư, ông Điệu, ông Đốc, bà Thủy, tam vị Phạm tinh,…
- Tranh súc vật: Đây là những bức tranh in hình 12 con vật cầm tinh cho thập nhị địa chi trong âm lịch gồm: tí, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi (chuột, trâu, cọp, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó, heo); tranh in hình các loài gia súc trâu, bò, heo, ngựa,... dùng để cúng tế hoặc treo trong các chuồng trại nuôi gia súc để cầu cho vật nuôi tránh được dịch bệnh, phát triển đầy đàn; tranh có hình các linh thú như voi, cọp để dâng cúng nơi các miếu nhằm tỏ lòng thành kính của con người với các loài mãnh thú và cầu mong các mãnh thú này không giáng họa cho người.
- Tranh đồ vật: Là những bức tranh in hình các loại áo quần; khí dụng; cung tên;… hoặc các loại tế phẩm như áo ông, áo bà, áo binh có in hoa văn trang trí.
Về kỹ thuật và chất liệu, tranh Sình là dòng tranh mộc bản in trên giấy dó. Quy trình làm tranh Sình trải qua nhiều công đoạn: cào điệp, giã điệp, hồ điệp, pha giấy, bồi điệp, phơi giấy, tạo màu, khắc ván, in tranh, tô màu,… Quy trình này là tập hợp các chuỗi công việc diễn ra trên một địa bàn trải rộng từ núi rừng đến đồng bằng ra vùng duyên hải, với những đóng góp của công sức, trí tuệ và sự khéo léo của ba nhóm nhân lực khác nhau:
- Nhóm thứ nhất chuyên nghề cào điệp, vớt điệp từ vùng đầm phá nước lợ ở ven biển. Điệp là loài nhuyễn thể có vỏ, thuộc họ trai sò, sống ở vùng đầm phá Tam Giang- Cầu Hai, trải dọc theo bờ biển Thừa Thiên Huế. Những trai đinh làng Sình đi cào vớt vỏ của những con điệp đã chết, chất lên đò, chở về làng Sình để người ở nhà giã thành bột điệp.

Ván khắc tranh Sình ngày trước hiện đang trưng bày tại bảo tàng MTCĐ Huế  


Ván khắc tranh thờ do phân viện VHTT thành phố Huế phát hiện trong một ngôi chùa ở Huế

- Nhóm thứ hai chuyên về khai thác nguyên liệu để làm màu. Họ sẽ ngược lên rừng hay len lỏi khắp các vườn cây, mảnh ruộng để truy tìm các loại cỏ cây, hoa trái để tạo màu.
- Nhóm thứ ba ở nhà đảm trách các việc như giã điệp thành bột, rồi trộn bột điệp với bột nếp nấu thành hồ điệp; pha giấy dó thành nhiều kích cỡ khác nhau (tùy theo chủ đề của từ loại tranh); phết hồ điệp lên mặt giấy dó rồi đem phơi; tìm các thớ gỗ mứt để khắc ván in theo những đề tài riêng; in nét bức tranh bằng mực đen; cuối cùng là tô màu để hoàn chỉnh bức tranh.
Về màu sắc, tranh Sình ngày trước sử dụng các chất liệu tự nhiên được khai thác từ rừng núi, đồng ruộng và vườn tược trong vùng.
- Màu vàng chế từ lá cây đung. Lá đung hái trong rừng sâu đem về, phơi cho úa, rồi ngâm vào nước ba ngày. Sau đó đem sắc trên bếp lửa, tạo được một loại nước cô đặc màu vàng sẫm. Kế đến, người ta hái những búp hoa hòe còn non, đem phơi khô, rang vàng và sắc lấy nước. Đem nước lá đung trộn với nước hoa hòe sẽ được một lọai màu vàng vừa thắm, vừa bền (4).
- Màu đỏ chế từ lá cây bàng mới rụng và vỏ cây dương liễu (phi lao) đập dập, sắc trên bếp lửa. Tùy theo tỉ lệ pha trộn giữa lá bàng và vỏ cây dương liễu, sẽ tạo nên các sắc đỏ đậm nhạt theo yêu cầu của bức tranh. Trước đây, màu đỏ còn được chế từ gỗ cây trâm chẻ nhỏ, nấu với nước cho đến khi cô lại đặc sánh.
- Màu đơn dùng bột gạch nung mài mịn, trộn với da trâu, hòa nước rồi đem nấu cho đến lúc đặc sánh.
- Màu lục là hỗn hợp của hai loại nước được sắc từ lá bông ngọt và lá mối.
- Màu tím được chế từ hạt mồng tơi giã nhỏ, vắt thành nước phèn pha với phèn chua để giữ màu.
- Màu chàm làm từ lá cây tràm ngâm vôi cho rữa nát, đánh cho tơi và nổi bọt, rồi vớt lấy bọt đó lọc kỹ, cho nước vào và cô đặc lại.
- Màu xám làm từ lá gai phơi khô, giã nhỏ và sắc lại.
- Màu đen là hỗn hợp giữa lá bàng quết với tro rơm rạ đã được ủ kín.
Mỗi bức tranh Sình được làm ra là sản phẩm của một dây chuyền thủ công của cả một làng nghề, có sự tham gia của nhiều lứa tuổi, giới tính: nam, phụ, lão, ấu; của nhiều nghề nghiệp: thợ chài, thợ sơn tràng, thợ điêu khắc dân gian, thợ in, thợ tô màu,… Vì thế, tuy tranh Sình dân dã, mộc mạc, nhưng như nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông đã nhận xét: “…sản phẩm này (tranh Sình- T.Đ.A.S.) chỉ là loại tranh mộc bản, tín ngưỡng dân dã, nhưng qua chất liệu, màu sắc, chủ đề, đường nét, bố cục, tranh Sình đã tạo nên một nét đặc thù không chỉ trong khía cạnh thẩm mỹ mà nội dung tranh còn biểu lộ một thái độ, một quan niệm, một nếp sinh hoạt của con người ở đây trước thiên nhiên, xã hội, lịch sử, văn hóa của mình”.
Ngày nay, tranh Sình vẫn hiện diện trong đời sống văn hóa tâm linh của người dân xứ Huế, nhưng cốt cách, hồn vía của tranh Sình thì đã đổi khác. Nhịp điệu tất bật của đời sống đương đại, cùng với sự xuất hiện của nhiều thứ tranh tượng, đồ mã thờ cúng cao cấp khiến người dân làng Sình không còn mặn mà với nghề làm tranh xưa. Cả làng hiện chỉ có bốn hộ còn theo đuổi nghề làm tranh. Và thay vì làm tranh với giấy dó, bột điệp và màu sắc tự nhiên, các hậu duệ của tranh Sình đã in tranh trên giấy bổi không phủ bột điệp và tô màu bằng hóa chất mua từ Trung Quốc. Hình in trên tranh cũng thay đổi do ván in xưa đã mai một bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, trong khi thợ khắc ván in hiện đại thì chạy theo nhu cầu của thị trường nên đã tạo ra những mảnh ván in lớn hơn, nét khắc cũng rối hơn và thô hơn. Vì thế mà những bức tranh Sình bày bán trong các cửa hàng đồ mã trở nên lòe loẹt và ngô nghê hơn.
T.Đ.A.S.
read more...

Thứ Năm, 3 tháng 5, 2012

Việt Mỹ thuật: Những Họa Sĩ Bậc Thầy Nhật Bản Khai Sáng Hội Họa Phương Tây

Việt Mỹ thuật: Những Họa Sĩ Bậc Thầy Nhật Bản Khai Sáng Hội Họa Phương Tây
Lam Điền (Sưu tầm & giới thiệu theo bài viết của Ken Johnson đăng trên tờ TBNY ngày 1.7.2005)  


HIROSHIGE. Kunisada, rút từ "53 thư trạm trên đường thiên lý Tokaido", 1852. Khắc gỗ

Tương truyền rằng các hoạ sĩ Pháp hồi giữa thế kỷ 19 đã khám phá ra nhiều điều kỳ diệu của tranh khắc gỗ Nhật Bản khi họ vớ được các giấy gói đồ gốm nhập từ Nhật Bản về. Ngày nay, khi ta xem các tranh in ván khắc của Utagawa Hiroshige và Katsushika Hokusai, hai họa sĩ vĩ đại nhất của thể loại tranh in bản khắc gỗ của Nhật Bản, ta khó có thể hiểu hết việc các hoạ sĩ theo trường phái Ấn tượng- Hiện đại chủ nghĩa của Châu Âu, từ Manet đến Bonnard, đã tìm thấy được ở các kiệt tác của họ tính trong sáng, tính tiết kiệm về đường nét hình thức và kỹ thuật tinh xảo của những tác phẩm có tính chất kim chỉ nam và là nguồn cảm hứng bất tận ấy của các nghệ sĩ Nhật Bản, giúp họ thoát khỏi các quy ước tù túng của hội hoạ Beaux Arts-Pháp và Victoria-Anh hồi thế kỷ 19.
Giờ đây, chỉ riêng Bộ sưu tập Phillips (Phillips Collection ) ở Washington cũng đủ minh hoạ được ảnh hưởng lớn lao của các tác phẩm tranh in ván khắc Nhật Bản đối với các hoạ sĩ Hiện đại chủ nghĩa của Châu Âu và Hoa Kỳ. Viện Bảo tàng Mỹ thuật Hiện đại trưng bày các tranh in trong Bộ Sưu tập Phillips nhan đề “Hội ngộ Đông- Tây: Hiroshige trong Bộ sưu tập Phillips Collection” (East Meets West: Hiroshige at the Phillips Collection) gồm loạt tranh in đã từng làm cho Hiroshige nổi tiếng- “53 thư trạm trên đường thiên lý Tokaido” (The Fifty-Three Stations of the Tokaido)- đan xen với các tác phẩm thuộc quyền sở hữu của bảo tàng do các nghệ sĩ nổi danh sáng tác như Cézanne, Whistler và Braque, cũng như các hoạ sĩ ít nổi tiếng hơn như Augustus Tack, Ernest Lawson và Maurice Prendergast.
Nhìn chung, đây không phải là một cuộc triển lãm lớn bởi vì nhiều tác phẩm của Âu châu và Hoa Kỳ không khác nhau về chất lượng lắm, đặc biệt khi đặt cạnh tác phẩm của Hiroshige. Tuy vậy, đây vẫn là một cuộc trưng bày đầy tính giáo huấn và khai sáng, đồng thời cũng là một dịp hiếm có giúp ta được chiêm ngưỡng cả bộ tranh “53 thư trạm trên đường thiên lý Tokaido” trong điều kiện nguyên bản. Đây là báu vật mượn được từ một bộ sưu tập tư nhân Nhật Bản.
Được ấn hành khoảng năm 1833-1834, bộ tranh này gồm 55 bức tranh phong cảnh dọc đường thiên lý Tokaido, quốc lộ duyên hải phía đông nối liền Edo- tức Tokyo ngày nay- với Kyoto, gồm 53 bức đặc tả 53 thư trạm được thiết lập dọc theo hai bên dặm đường thiên lý này cộng với 2 bức miêu tả hai cây cầu ở điểm đầu và điểm cuối của cuộc hành trình.
Xem hết bộ tranh được tuyển chọn từ Bộ sưu tập Phillips, ta thấy hình như những gì các nghệ sĩ phương Tây tiếp thu được từ Hiroshige và các nghệ sĩ vẽ tranh in khác của Nhật Bản chủ yếu là về hình thức trình bày tranh: bố cục gọn nhẹ, hoặc để trống khoảng không gian ở phần chính giữa, đơn giản hoá các chi tiết nhằm nêu bật các hình khối, hoa văn, nhịp nhàng đường nét,...


Chân dung Hiroshige do Kunisada vẽ theo trí nhớ

Đối với các nghệ sĩ thuộc trường phái Ấn tượng chủ nghĩa, những ưu điểm này phục vụ cho việc sáng tác sơn dầu trên toan vải bố, là chất liệu gây cảm nhận thị giác rất nhạy... Với các nghệ sĩ Hậu Ấn tượng chủ nghĩa như Van Gogh và Cézanne, có một sự chuyển hướng từ gây cảm nhận thị giác sang quan tâm có tính chất liên hệ bản thân đến hệ thống các qui tắc hình họa. Việc này không hề đi ngược lại truyền thống Nhật Bản, không phát triển khả năng sao chép thiên nhiên mà bằng cách ngày càng làm tinh tế hơn các qui ước truyền thống của nghệ thuật trình bày mà thôi.
Điều kỳ diệu trong Hiroshige là ở chỗ ông đã tạo nên một ấn tượng trừu tượng đơn giản tuyệt đẹp một cách nhẹ nhàng biết dường nào bằng đường nét chính, các màu cùng sắc thái theo hướng tự nhiên chủ nghĩa, tạo nên được những hiệu ứng tự nhiên trong sáng về ánh sáng và thời tiết cũng như những đặc tả các đặc trưng thiên nhiên của phong cảnh.
Về một phương diện nào đó, phương Đông đã gặp phương Tây trong lúc đi theo các hướng trái ngược nhau: phương Đông theo hướng tự nhiên chủ nghĩa đậm nét hơn và phương Tây theo hướng trừu tượng hoá mạnh mẽ hơn.
Tác phẩm của Hiroshige là đợt nở rộ cuối cùng của nghệ thuật in tranh truyền thống của Nhật. Khi Nhật Bản mở cửa thương mại với phương Tây vào năm 1853, thì nghệ thuật và nhiếp ảnh phương Tây đã tràn vào, khiến cho các phong cách trình bày của Nhật trở nên lỗi thời. Trong khi đó, Chủ nghĩa hiện đại Tây phương lại tiếp thu những gì nó cần từ phương Đông và tiếp tục lao vào các lĩnh vực trừu tượng hoá không hề được định trước.
Vì các tác phẩm của phương Tây trong Bộ sưu tập Phillips nhìn chung đều rất mờ nhạt, cho nên tác dụng chủ yếu của cuộc triển lãm này là nhằm nêu bật Hiroshige vĩ đại tới mức nào: cứ mỗi lần ta chuyển quan sát từ một trong số những tác phẩm của nghệ sĩ phương Tây- dù đó là của Bonnard hay của Prendergast hay của Kokoschka- sang một trong những kiệt tác tuyệt vời, long lanh của Hiroshige, lập tức ta cảm thấy ngay được một cảm giác nhẹ nhõm, một niềm vui sướng ngập tràn khôn tả. Tình hình sẽ khác giá như các tác phẩm của các nghệ sĩ phương Tây khác được trưng bày- chẳng hạn Manet, Cassatt, Van Gogh và Vuillard đều là những danh hoạ nằm trong số vắng bóng- cho nên trước sự hiện diện của tác phẩm của các nghệ sĩ thuộc “hạng đàn em kia”, các kiệt tác của Hiroshige thực sự nổi trội lên, chói loà, choáng ngợp.


HIROSHIGE. Núi Phú Sĩ nhìn từ Numazu, một trong 53 thư trạm trên đường thiên lý Tokaido 

Tập trung vào các tranh in của Hiroshige, bạn khám phá được một điều gì đó mà các hoạ sĩ Hiện đại chủ nghĩa bỏ qua mất vì họ quá tập trung vào hình thức và trừu tượng hoá: những tranh in đó thú vị biết nhường nào! Hiroshige không phải là một viên quan lại sáng tác tranh đơn thuần để cho một số ít người được học hành ngắm nhìn cho vui mắt, ông là một nghệ sĩ vô cùng nổi tiếng trong dân chúng. Có những hình ảnh về phong cảnh trên đường thiên lý Tokaido được vẽ và bán tới con số trên 10.000 bản đến mức nhiều bản khắc gỗ bị mòn và đã phải khắc lại để thoả mãn nhu cầu của mọi người.


NISHIKAWA SUKENOBU. Hộp búp bê. TK18. Tranh khắc  


KATSUSHIKA HOKUSAI. Sóng bạc đầu trên bờ biển Canagawa. Khắc gỗ


Ta có thể dễ dàng thấy được tình cảm mến mộ đó của dân chúng. Hiroshige là một nghệ sĩ vô cùng tài ba, dí dỏm và phóng khoáng. Hầu như tất cả những hình người nhỏ xíu trong các bức tranh phong cảnh của ông đều được cá tính hoá trông ngồ ngộ về điệu bộ, cử chỉ; mặc dù series tranh in này không đặc tả những nhân vật chủ chốt nào, như thể loại tranh minh hoạ tiểu thuyết thường làm, nhưng ông vẫn tạo cho mỗi nhân vật nhỏ xíu của ông một tính người rất sinh động: chẳng hạn, người đàn ông chạy theo cái mũ của mình bị gió cuốn đi, những người phụ nữ mời chào khách vào nhà hàng của họ, những người đàn ông ngồi nhấm nháp chén trà trong các quán trà, những lữ khách gập ghềnh bước thấp bước cao trên sườn núi dưới trời mưa tầm tã,...


HIROSHIGE. Đèo Satta. Khắc gỗ

Hơn nữa Hiroshige còn khơi gợi được ý thích lao vào những cuộc viễn du. Thực tế, những bức tranh in của ông đặc tả được đủ các hạng người trong xã hội đang trong quá trình dịch chuyển; chúng không phải là những bưu ảnh phong cảnh của thế kỷ 19. Hầu như trong mỗi bức tranh in, Hiroshige đều sử dụng những thủ thuật hình thức để nêu bật một động tác nào đó trong không gian: những con đường ngoằn ngoèo từ gần đến xa, mắt ta thì dõi theo xem chúng dẫn tới đâu còn trí ta thì phân vân tự hỏi chúng vượt ra khỏi khung tranh ở những chỗ nào.
Trong nhiều bức, các cây cầu tưởng chừng như bắc qua không trung khiến ta tự hỏi không biết những người qua cầu từ đâu tới và họ sẽ đi đâu, về đâu. Mà cầu thường dẫn vào các làng xóm nên ta lại phân vân tự hỏi không biết những lữ khách mỏi mệt kia sẽ cảm thấy thế nào khi tới được nơi họ mong muốn: bầu không khí ấm cúng của tổ ấm gia đình, bữa cơm đông vui đầm ấm, cảm giác được thoải mái nhờ nghỉ ngơi thư giãn,... Đôi khi, tổ ấm còn quá xa vời, hình ảnh một thị trấn dưới chân một ngọn núi cao ở phía xa xăm như vẫy gọi mời chào đoàn lữ hành còn đang ngồi nghỉ lấy sức ở tiền cảnh sau khi vượt qua một con sông nước cuồn cuộn đổ về xuôi... Không hề có tí gì có tính chất tôn giáo trong các hình ảnh của Hiroshige mà chỉ có một ý ngầm thôi thúc ta khăn gói lên đường dấn bước vào cuộc lãng du như một cuộc hành hương trong tâm thức mà thôi.
Khó có tác phẩm nào của các nghệ sĩ phương Tây trong Bộ sưu tập Phillips trưng bày tại đây toát lên được cái cảm giác thôi thúc lên đường đó. Ernest Lawson có vẽ những cây cầu theo phong cách Ấn tượng chủ nghĩa, nhưng chúng cứ nhòa dần vào các lớp sơn bồi dầy không rõ nét của tác phẩm, chúng không phải là những cây cầu thôi thúc ta muốn băng qua trên dặm đường thiên lý... Ngay cả bức tranh phong cảnh Núi Sainte-Victoire của Cézanne cũng không khơi gợi một ý thích nào khiến ta muốn bước vào thế giới của nghệ sĩ cả; những mảng sơn trát dày của nghệ sĩ ngăn bất cứ ý muốn nào trong tâm tưởng của ta và hướng ta chú ý tới cách cấu tạo của bức tranh nhiều hơn.


CLAUDE MONET. Ấn tượng bình minh  


VINCENT VAN GOGH. Cây lê nở hoa. 1888 theo phong cách các tranh in ván khắc Nhật Bản

Chỉ có một trường hợp ngoại lệ trong số các tác phẩm phương Tây này là tác phẩm tuyệt vời sáng tác thời gian đầu của Paul Gauguin trong đó ta đứng trên một đồi cao cỏ mọc xanh tươi nhìn xuống mấy người đang tắm dưới làn nước ở rìa một con sông và một ngư phủ ngồi câu cá ở một mũi đất phía xa xa... Ta có cảm giác như thể ta muốn lao xuống đồi cũng để tắm cho thoả thích hoặc ngồi nhàn tản buông câu bên làn nước êm trôi...
Hội hoạ Hiện đại chủ nghĩa phương Tây đã bỏ qua không phát triển khía cạnh hình ảnh và tâm lý lãng du này, nhưng trong cuộc triển lãm tại đây, nó lại rất được chú ý. Cách miêu tả của Hiroshige không hề bị mai một. Nó nở rộ trong các truyện tranh, các tiểu thuyết có tranh minh hoạ, các phim hoạt hình mà các nghệ sĩ của cả phương Đông lẫn phương Tây vẫn tiếp tục, gây ấn tượng mạnh đối với biết bao người trên toàn thế giới.

Lam Điền
(Sưu tầm & giới thiệu theo bài viết How a Japanese Master
enlightened the West của Ken Johnson đăng trên tờ TBNY ngày 1.7.2005)
read more...