Hiển thị các bài đăng có nhãn THÔNG TIN MỸ THUẬT SỐ 13-14. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn THÔNG TIN MỸ THUẬT SỐ 13-14. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

Kỷ Niệm 400 Năm Ngày Sinh REMBRANDT


Kỷ Niệm 400 Năm Ngày Sinh REMBRANDT
Đại đội dân binh của Đại úy Frans Banning Cocq (Thường được biết là "Tuần tra đêm"). 1642. Sơn dầu. 371x437cm
Rembrandt sinh ngày 15/7/1606 tại Leyden trong một gia đình giàu có. Ông có năng khiếu hội họa từ bé, luôn thích thú với những tranh minh họa trong Thánh kinh, hay thuận tay ký họa đầy mặt vở học lúc đến trường. Đầu tiên, ông học chữ Latin rồi vào Đại học học Chính trị Pháp luật. Nhưng Rembrandt rời bỏ ngành này rất nhanh để theo học hội họa trong các xưởng vẽ. Ông học nghề những năm đầu tiên tại Leiden trước khi đến Amsterdam. Sau khi học nghề xong ông trở về Leiden và làm một họa sĩ độc lập. Ông vẽ một số tranh trong xưởng vẽ tại Leiden. Năm 1625, Rembrandt mở một xưởng vẽ riêng.
Những tác phẩm của Rembrandt có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển hội họa Phương Tây 400 năm qua, ông  được xếp vào 10 danh họa lớn nhất thế giới (những bậc thầy khác là Leonardo da Vinci, Michelangelo, Albreeht Durer, Paul Rubens, Eugene Delacroix, Anguste Rodin, Vincent Van Gogh, Henri Matisse, Pablo Picasso).
Ong là một họa sĩ Baroque mà không phải Baroque, như Michele Barilleau và Francois Giboulet đã từng nói về ông: “Trái lại với hội họa Baroque, Rembrandt - nhà nhân văn chủ nghĩa Tin lành - lại gắn bó với việc biểu hiện cái đẹp bên trong và thầm kín của con người. Ông sử dụng ánh sáng - bóng tối như một chất thơ tạo hình và như một phương tiện kỹ thuật để nhấn mạnh hình ảnh”.
Tự họa. 1639. Khắc kẽm. 20,5x16,4
Từ năm 1630, Rembrandt chuyển đến ở hẳn Amsterdam, ở đây ông vẽ bức tranh nổi tiếng “Bài học giải phẫu của bác sĩ Tulp” (1632). Rembrandt nổi tiếng trong việc vẽ chân dung ,  nhất là chân dung tập thể, đó cũng là sự độc đáo mà trước ông người ta ít thấy ở những họa sĩ khác. Ông không những nổi tiếng về tranh sơn dầu, mà còn có sở trường về tranh khắc đồng (Etching) phát minh ra cách khắc đồng bằng sáp và axít. Ông đã để lại một di sản 600 bức sơn dầu, hơn 1300 bức tranh khắc, 2000 bức ký họa và đồ họa cho hậu thế. Nhưng riêng ông, cho đến lúc mất, vào năm 1669, chẳng có một cái gì cho riêng mình, ngoài sự cô đơn, một cuốn Thánh Kinh, và sự nghèo khó. Những bức chân dung tự họa vào lúc tuổi già, mặt đầy vết nhăn, chứng tỏ sức chịu đựng và sự đau đớn khôn nguôi.
Rembrandt vẽ chân dung tự họa đến gần 100 bức, lúc còn thanh niên, ông tự thể hiện mình là một người dè dặt, khiêm tốn, lúc trưởng thành là một người có sự nghiệp, tự tin trong công việc, thành đạt trong cuộc sống, còn lúc về già thì lộ rõ vẻ nghèo đói, khô kiệt. Wendy Beckett bình luận về bức chân dung Rembrandt tự vẽ lúc tuổi già là: “Nét mặt của ông không bộc lộ một tham vọng nào, và cái nhìn dường như hướng về chúng ta ít hơn hướng về lòng mình với sự tỉnh ngộ sáng suốt. Đó là sự thú nhận cảm động của một người ý thức được giới hạn của mình, của cái nghệ thuật rất cao biết nhìn nhận thất bại”. 
Tự họa tại Saint Paul (55 tuổi). 1661. Sơn dầu. 91x77cm
Bức tranh danh tiếng nhất của ông, bức “Tuần đêm” đạt tới đỉnh cao của chân dung tập thể được bố cục như một tranh sinh hoạt, cùng với tác phẩm “Đại biểu nghiệp đoàn buôn vải”, “Bài học giải phẫu của bác sĩ Tulp” là mẫu mực của một sự phân tích tâm lý sâu sắc, qua dáng vẻ ngoại hình đã kể lại cuộc đời nhân vật, những con người thị dân bình thường đã trở thành đối tượng nghệ thuật. Ông đã là người đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực sau này – Ngay cả khi vẽ nhân vật nữ, ông không cố ý làm đẹp, mà mô tả họ như chính những phẩm chất trong con người bình dân. Nghệ thuật của Rembrandt luôn luôn được cách tân trong những chặng đường khác nhau của cuộc đời ông. Các nhà phê bình đã dùng những ngôn từ như “chiều sâu vô hạn”, “sự tìm kiếm sắc bén” để miêu tả cách dùng màu sắc của Rembrandt. Càng về cuối đời ông càng sử dụng cách vẽ sơn dầu có chất cảm dầy và mạnh, trông như những vệt bút và những mảng màu trừu tượng. Tuy vậy, cách vẽ này làm cho tranh của ông chứa đựng “đặc chất nội tại của tinh thần”. Trong sự tĩnh lặng, tranh Rembrandt hàm chứa một tình cảm nồng nhiệt và trong kỹ năng tả thực chuẩn xác của ông bộc lộ nỗi sung sướng cũng như niềm đau khổ vô hạn.
Rembrandt mất này 4/10/1669 tại nhà riêng của ông ở Rozengracht. Ông được mai táng ngày 8/10 trong một nghĩa địa vô danh ở Westerkerk, Amsterdam. Rembrandt đã từng trải qua quãng đời sung sướng cũng như những đau khổ. Ông hiểu rõ sự phù du của cuộc sống, nhưng có lẽ cũng như nhiều nghệ sĩ lớn khác, ông cũng hiểu rõ giá trị vĩnh hằng trong nghệ thuật của bản thân mình.
B.T
read more...

Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

Đại học mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Sơn mài truyền thống, sơn mài Việt Nam, tranh sơn mài: Sơn Ta - Sơn Mài, Phát Triển Hay Thụt Lùi

Đại học mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, Sơn mài truyền thống, sơn mài Việt Nam, tranh sơn mài: 
Sơn Ta - Sơn Mài, Phát Triển Hay Thụt Lùi 
Họa sỹ: Phạm Huy Hùng  

Trước khi đi vào vấn đề chính tôi thấy cần bàn đôi chút về khái niệm Sơn Ta - Sơn Mài. Sơn Ta có nguồn gốc lâu đời, trong xã hội cận đại, Sơn Ta chủ yếu được dùng sản xuất đồ mỹ nghệ, và “trang trí” tượng chùa. Sơn Mài có xuất xứ từ Sơn Ta. Sau năm 1925 mới có thuật ngữ Sơn Mài.
Thực ra, trong thao tác cơ bản khi làm vóc hay làm tượng phủ sơn đã bao gồm có cả Sơn và Mài, nhưng sơn và mài ở đây là hai quá trình bồi đắp và làm phẳng; Còn khi các sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (CĐMTĐD) làm tranh lại áp dụng kỹ thuật sơn và mài theo một hướng khác.


NGUYỄN SÁNG. Lớp học đêm. 1960. 80x120cm 

Sơn là vẽ, là dự kiến, là đưa ra khả năng phối trợ, bao gồm dự định phối hợp của nhiều lớp màu được chồng đè (không tuyệt đối đồng đều về độ dày mỏng) lên nhau.
Mài, là vẽ, là làm phẳng, là tận dụng khả năng phối hợp (cả ngẫu nhiên và chủ động) của những lớp màu đã sơn theo dự kiến lúc trước. Với kỹ thuật như trên, sơn - mài có ưu thế về chiều sâu, lộ rõ thứ lớp của nhiều lớp màu; khi bức tranh được đánh bóng thì hiệu quả theo chiều sâu tăng lên rõ rệt, không một chất liệu nào sánh kịp.
Ngày nay nhiều họa sĩ thay sơn ta bằng sơn Nhật, thao tác cơ bản cũng bao gồm có sơn và mài như cách vẽ sơn ta, cũng tạo nên hiệu quả lộ màu phía dưới, nhưng tịt và lì màu, không có chiều sâu như chất sơn ta.


NGUYỄN KHANG. Đánh cá đêm trăng. 1943

Bởi vậy, để nhấn mạnh sơn mài có nguồn gốc từ sơn ta và cũng để phân biệt với sơn mài sử dụng chất sơn bóng của Nhật, tôi tạm đặt gạch nối giữa hai danh từ: sơn ta - sơn mài.
Trước năm 1925, nghĩa là trước khi nhóm thanh niên những khóa đầu của trường CĐMTĐD, đưa sơn ta vào sáng tác hội họa. Đại để sơn ta được sử dụng để sản xuất những đồ “thủ công mỹ nghệ”, và quả thật khi ở trường Mỹ Thuật, người Pháp chủ trương đào tạo những thợ mỹ nghệ.
Trong công cuộc này, sơn ta được coi như món hàng béo bở nhằm khai thác lợi nhuận kếch xù cho người Pháp, việc những sinh viên mỹ nghệ trở thành nghệ sĩ nằm ngoài ý muốn của chính phủ bảo hộ là nhờ ở công lao rất lớn của ngài Hiệu trưởng Victor Tardieu. Còn sơn ta được áp dụng làm hội họa tương truyền nằm ở công lao khuyến khích và cổ vũ nhiệt tình của ngài Joseph Inguimberty. Khi sơn ta - sơn mài gặt hái được những kết quả đáng mừng, dư luận nói chung rất phấn khởi, thì cùng lúc một số tờ báo lúc đó lại lên tiếng phản đối với luận điệu rằng: sơn ta đang được việc cho mỹ nghệ, nên để sơn ta chuyên làm đồ mỹ nghệ, bảng màu của sơn ta quá nghèo nàn, không đủ sức diễn tả được hiện thực v.v...
Tuy vậy thắng lợi trên nghệ thuật hội họa đã đưa sơn ta - sơn mài vượt át những ý kiến phản bác.
Sau này trong kháng chiến chống Pháp, xuất phát từ chủ trương “Nghệ thuật phục vụ công chúng”, “Nghệ thuật tuyên truyền”, Nguyễn Đỗ Cung (người trước kia hết lời ca ngợi sơn mài) nay cực lực phản đối. Ông cho rằng: “Làm sơn mài là tự húc đầu vào tường, Nguyễn Gia Trí cũng húc đầu vào tường...”
Lúc này một số họa sĩ lao vào sáng tác sơn mài hoàn toàn có khả năng tả thực. Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tư Nghiêm cùng nghiên cứu thử đưa màu xanh vào sơn mài, mở ra cho chất liệu sơn mài vốn chỉ có son đỏ, sơn then, vàng lá, bạc, trắng, vỏ trứng, nâu hoặc cánh gián... nay có thêm hệ màu lạnh.
Bức tranh “Lớp học đêm” của Nguyễn Sáng được thể hiện bằng sơn mài như một bằng chứng sống động nhất chứng minh sơn mài có đủ khả năng diễn thực, tả thực.
Vượt qua những mốc khó khăn đó, tiếp theo là giai đoạn sơn mài trên đà phát triển nở rộ với những tìm tòi, khám phá chất liệu phong phú, đa dạng, tưởng như không gì là không làm được.


LÊ QUỐC LỘC. Hội chùa. 1939

Tuy vậy, thắng lợi của sơn mài trong hội họa hình như đã làm chúng ta choáng ngợp, đi tới nhận định: sơn ta trong truyền thống chỉ dùng sản xuất đồ mỹ nghệ, sự xuất hiện của hội họa sơn mài đã đưa sơn ta lên một địa vị mới - địa vị của nghệ thuật - thật vậy chăng?. Đúng là sơn mài đã khẳng định thành công vị trí của mình trong sáng tác hội họa, nhưng nếu chỉ vì vậy mà khẳng định như trên thì hình như trong nhận định ấy có vấn đề nhầm lẫn.
Quả là trước năm 1925, sơn ta đã từng được dùng để sản xuất nhưng đồ mỹ nghệ như: Hoành phi, câu đối, tráp quả, khay đĩa và cả những đôi guốc mộc xinh xắn... ở trong không gian gia đình, vàng, bạc, sơn son lộng lẫy hứa hẹn một đời sống giàu sang, vương giả. Nhưng khi bước chân quá cửa chùa thì cũng vàng, bạc, sơn son ấy giờ đây rực rỡ, kỳ ảo trong đèn nến phản chiếu một thế giới tâm linh, đưa hồn ta tạc vào miền cực lạc, không phải nhờ vào “Đẹp vàng son, ngon mật mỡ”; Vàng, bạc, sơn son giờ đây vứt bỏ cái áo mỹ nghệ, thay đổi thể chất để sống đời sống tâm linh, thanh tịnh, uy nghiêm và vô biên nâng đỡ tâm hồn nhiều thế hệ người Việt.
Hãy thử hình dung những tượng Quan âm Nam Hải (Chùa Bút Tháp), Phật Nhập Niết Bàn (Hà Bắc), tượng Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, nếu tước bỏ đi lớp áo sơn ta sang trọng lộng lẫy liệu còn giữ nguyên hiệu quả thẩm mỹ? ở đây chất sơn ta hơn bao giờ hết phát huy được đặc tính chất liệu ở mức cao nhất của nó.
Nhắm mắt, tập trung mẫn cảm vào đầu ngón tay rồi lướt nhẹ bàn tay trên bề mặt tượng tròn, chất sơn mát lạnh, trơn hoạt nuột nà sẽ đưa bạn tạm rời bỏ những ưu phiền đời thường như vị sư già lần tràng hạt, miệng Nam Mô Phật... bỏ lại cõi thế tục bước vào thế giới tâm linh!
Mở mắt nhìn tượng phật lung linh, bóng sâu thăm thẳm như hư không bất tận, hiệu quả phối trợ giữa chất liệu sơn ta trên tượng tròn tưởng chưa bao giờ được phát huy trở lại ở mặt phẳng không gian hai chiều - từ những mặt tranh - của các họa sĩ sơn mài trường Mỹ thuật Đông Dương cho đến hiện đại.
Cảm hứng nghệ thuật, linh hồn nghệ thuật dân tộc Việt Nam từ Đông Sơn đến 1925 chủ yếu được thể hiện ở điêu khắc, và ở đây trong giá trị tinh thần của những tượng phật, tượng tổ, tượng chân dung... không thể phủ nhận những vai trò rất lớn của chất liệu sơn ta.


NGUYỄN SÁNG. Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ. 1963

Vậy là trước khi có trường Mỹ thuật Đông Dương, trước khi lớp sinh viên đầu tiên nghiên cứu đưa sơn ta vào sáng tác hội họa thì sơn ta đã từng có địa vị nghệ thuật vững chắc trên cơ sở kết hợp chất liệu với kiến trúc và điêu khắc.
Nói tới sơn ta, thiết tưởng cũng cần nhắc qua đôi nét sơ lược về những kỹ thuật mà ngày nay không còn xuất hiện... không phải tất cả các tượng chùa cận đại có phủ sơn ta đều được làm bằng cốt gỗ. Phần đa các tượng phật, tượng bà chúa... được làm bằng cốt đất phủ sơn. Lại có tượng hai vị sư chùa Đậu, có cốt bằng người thật...
Nói đến cốt đất chúng ta có thể liên tưởng đến việc tổ tiên chúng ta - còn sót lại khá nhiều ngày nay ở những vùng nông thôn nghèo với cách làm nhà bằng tường đất đố, hoặc đất nện. Loại tường này không có độ bền như tường gạch, đá nhưng hợp thủy thổ, tiện dụng và lại rẻ tiền.
Tượng đất phủ sơn là giải pháp hết sức độc đáo, phản ánh tài trí trong truyền thống của dân tộc ta. Khi quan sát những tượng bằng đất phủ sơn, bạn sẽ nhận thấy vẻ lộng lẫy toát lên không kém gì những tượng gỗ phủ sơn. Ngày nay việc làm tượng như trên không thịnh hành, kể như bởi một phần thị hiếu và những tiến bộ kỹ thuật của thời đại, nhưng một phần bởi hình như kỹ thuật đó đã thất truyền (?). Chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu để lộ rõ công đoạn và kỹ thuật làm tượng bằng cốt đất phủ sơn. Theo phỏng đoán, đại để, đất sét được luyện kỹ với mùn cưa hoặc vỏ trấu rồi đem nặn đắp thành tượng đất. Sau đó tiếp tục bồi lên phần thân tượng mấy lớp giấy bản hoặc giấy dó... tiếp theo là những công đoạn tương tự như khi ta làm tượng gỗ phủ sơn hoặc làm vóc để vẽ tranh sơn mài.
Cho đến nay kỹ thuật xử lý tượng hai nhà sư chùa Đậu vẫn hoàn toàn mờ mịt... cùng với hai nhà sư, kỹ thuật xử lý xác, kỹ thuật phủ sơn... rồi sẽ rời bỏ chúng ta để trở về với hư vô vĩnh viễn.


PHAN KẾ AN. Nhớ một chiều Tây Bắc. 1958

Lại có những tượng xử lý màu da thịt bằng những mảng màu trắng ngần, sâu thẳm... trường tồn qua thời gian vẫn sáng ngời. Trong khi bột trắng titan mà chúng ta dùng trong sơn mài hiện nay thường trơ lỳ và xám đi theo thời gian.
Nói qua đôi điều về kỹ thuật và chất liệu để chúng ta thấy rằng những điều chúng ta biết về kỹ thuật, chất liệu sơn ta truyền thống còn chưa nhiều. Những gì được xem là thắng lợi của sơn mài cũng chưa vượt nổi con mắt thẩm mỹ tài tình khi các cụ đưa chất sơn ta lộng lẫy sang trọng, sâu thẳm, nửa thực nửa hư âm vang như tiếng chuông chùa xóa tan niềm tục, phối trợ trên những tượng tròn để nâng giá trị, nâng phẩm hạnh tốt đẹp của sơn ta lên một bậc nữa để rồi trở thành kinh điển.
Khi sơn ta được ứng dụng vào hội họa thì đại để cũng cái kỹ thuật làm vóc hay làm các lớp áo cho tượng tròn, người họa sĩ dùng sơn cánh gián, sơn then trộn, giằm với son, vỏ trứng, vỏ trai hoặc vàng bạc mà tô màu lên những tấm vóc phẳng hoặc được đắp nổi trội lên ở một số chi tiết, rồi dùng đá son mềm mài phẳng bề mặt...
Thoạt đầu của công cuộc khai thác sơn ta, những tên tuổi như: Nguyễn Văn Quế, Tạ Tỵ, Phạm Hậu, Mạnh Quỳnh, Nguyễn Khang, Lê Quốc Lộc, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn... đều góp mặt. Phần lớn các tranh giai đoạn này trầm nặng, cổ kính, hệ thống nét tỉ mỉ, trau chuốt thiên về chất trang trí. Duy chỉ có Nguyễn Gia Trí vượt trên tất cả... màu sắc được tự do ngao du cất tiếng hát kể truyện cổ tích... những khung cảnh đời thường như khóm tre, bụi chuối, hồ sen... giờ đây lung linh huyền ảo bên những lưng ong thoắt ẩn, thoắt hiện... những nét vàng như tự trong sâu thẳm sơn then bất chợt cao vọi phóng túng như cánh diều no gió hay khúc hát cao vút dội vào trời xanh... nâng hồn ta hoan hỷ... ngập tràn trong ánh sáng... đó là thứ ánh sáng của những vùng hư ảo từ sâu thẳm tâm linh biến đổi thể chất của vàng bạc, sơn son chiếu rọi chan chứa thấm đẫm đến người và vật.
Như trên tôi đã nói, trong kháng chiến chống Pháp với tinh thần phục vụ số đông công chúng, “Nghệ thuật tuyên truyền”, nhiều ý kiến cho rằng sơn mài không đủ sức tả thực, để phản bác những ý kiến nói trên Tô Ngọc Vân bắt tay vào nghiên cứu tìm cách diễn tả hiện thực qua chất liệu sơn mài. Còn Nguyễn Sáng qua tác phẩm “Lớp học đêm” lại khiến tất cả nhưng ai còn nghi ngờ khả năng tả thực của sơn mài đều bị thuyết phục; ấy vậy mà sau đó cả Nguyễn Sáng, Tô Ngọc Vân rồi Nguyễn Tư Nghiêm đều không thấy đi sâu vào lối vẽ tả thực nữa, có lẽ mẫn cảm của tài năng lớn đã mách bảo các ông dừng bước.
Nguyễn Gia Trí nói: “Có vẽ sơn mài mới hiểu Matière. Trước tôi cứ nghĩ Matière là vẽ quả táo phải có chất như quả táo thực. Chất không phải là chất của vật” lúc khác ông lại nói: “Bắt đầu vẽ sơn mài là vẽ trừu tượng rồi vì nó không thực như ngoài đời. Họa sĩ vẽ sơn mài nhìn vào tâm bên trong chứ không nhìn vào cái vỏ bề ngoài của sự vật”. Điều dó lý giải cho việc nhiều họa sĩ không hiểu về nghệ thuật truyền thống, không hiểu chất sơn, áp đặt thẩm mỹ “hiện thực” một cách máy móc cho chất liệu sơn mài, qua những sáng tác ấy họ đã hoàn toàn đánh mất chất liệu.
Đối với Nguyễn Tư Nghiêm, hình như tình cảm của ông có thể ứng được với cùng lúc nhiều chất liệu. Ông nổi tiếng về vẽ sơn dầu khi còn ngồi trên ghế nhà trường, nhưng đối với bột màu và sơn mài cái duyên của ông cũng không kém vẻ đằm thắm mặn mà. Qua những tranh “Điệu múa cổ” Nguyễn Tư Nghiêm hoàn toàn chinh phục công chúng với mạch nguồn dân tộc cùng sáng bừng nhịp nhàng và huyền thoại trong vàng, bạc, sơn son. Ta nhận thấy qua loạt tranh “Điệu múa cổ” của Nguyễn Tư Nghiêm cảm xúc trong sáng hồn nhiên được điều hòa trong một tư chất khúc chiết mạch lạc – cảm xúc dân gian trong trẻo trong một già dặn bác học.
Họa sĩ Trần Văn Cẩn tỏ ra là người yêu sơn, hiểu sơn, nâng ưu thế của Sơn ta đến mức tuyệt đẹp khó lòng có thể bỏ qua bức “Tát nước đồng chiêm”. Mảng then chiếm diện tích chính bề mặt bức tranh diễn tả mặt nước bằng lối ước lệ mà rất trừu tượng vừa sâu thẳm, lại chắc khỏe tôn lên những dáng người như múa trong hoạt động tát nước gầu giai, tạo nên hiệu quả sinh động và nhộn nhịp của khí thế lao động hợp tác xã nông nghiệp. Ta còn thấy ở góc tranh con cò vỗ cánh vụt bay trên ngọn tre và tiếng cười nói vui vẻ giòn tan chung chiêng với ánh trăng dát bạc.
Có thể nói, qua tranh “Tát nước đồng chiêm”, Trần Văn Cẩn đã tạo nên bất ngờ về hiệu quả thẩm mỹ của chất sơn then - hiện thực không phải là cái ta trông thấy – hiện thực là cái ta cảm thấy trong tâm tưởng.


PHÙNG PHẨM. Chống hạn. 1990

Với lối tạo hình cô đọng, bút pháp ào ạt hứng khởi, thoát ly hoàn toàn cách vẽ tô màu tỉ mỉ vẫn thấy ở nhiều người vẽ Sơn mài. Nguyễn Sáng cho công chúng thưởng thức cảm xúc ấy ngon lành và lộng lẫy, hùng tráng với nhiều cung bậc thứ lớp của các lớp sơn qua tác phẩm “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” (1963).
Ở tranh “Chùa tháp” ông lại khiến người xem xúc động về một vùng đất văn hiến , trù phú được thể hiện bởi phần lớn diện tích bầu trời, mặt nước ruộng bùn từ chất bột son. Ngoài ra ta còn thấy hiệu quả tương tự của bột son qua tranh “Tre” của Trần Đình Thọ (1957).
Tranh “Nhớ một chiều Tây Bắc” của Phan Kế An có thể nói là bức tranh mà ở đó màu xanh trong tranh sơn mài được thể hiện hoàn hảo gây xúc động lòng người, không chỉ màu xanh tạo hiệu quả không gian thực mà ta còn nghe được âm hưởng hùng vĩ của Tây Bắc qua hiệu quả bóng, trong, sâu thẳm rất riêng của chất sơn ta đưa lại.
Chất sơn mài vốn trầm ấm, nặng và chậm, nhưng Nguyễn Đức Nùng đã cho người xem tìm được cái cảm giác thanh nhẹ, bảng lảng sương khói qua bức “Nguyễn Du đi săn”.
Công chúng yêu sơn mài đã từng trầm trồ thán phục trước vỏ trứng biến đổi thể chất trên tranh Nguyễn Gia Trí, thì nay Nguyễn Văn Tỵ lại trình làng với những ứng xử hết sức phong phú của chất vỏ trứng trong tranh “Thiếu nữ và biển”; Vỏ trứg tung tẩy, ào ạt như nhảy mùa bên sơn then tràn trề sức sống và sáng ngời lên như vạn trân châu.
Điểm qua một số tác phẩm sơn mài với những thành công nhất định như trên, ngoài ra chúng ta còn bắt gặp xúc cảm nghệ thuật và nhiều thử nghiệm kỹ thuật trên tranh sơn mài của nhiều họa sỹ khác. Tuy vậy những tác phẩm có được sự cảm thông giữa sơn và người quả không nhiều.
Hầu hêt các họa sỹ Việt Nam ai cũng thử duyên với sơn mài, nhưng rồi người phải chia tay vì thấy không hợp tạng, người cố theo đuổi vì yêu chất sơn truyền thống, thế nhưng hình như xúc động được“nàng Sơn”. Lại có người áp đặt, ép “nàng” phải thích ứng với những gì không phải là phẩm chất tốt đẹp nhất trong tâm hồn “nàng”; kết quả nhận được như chúng ta đã thấy ở rất nhiều tranh Sơn Mài với một bộ mặt gượng ép, vụng về và vô duyên.
Rải rác và tập hợp suốt cả chặng đường diễn tiến của sơn mài, chúng ta mới có được bộ sưu tập mà ở đó, mỗi tác giả thông qua tác phẩm góp cho công chúng một cái nhìn thẩm mỹ, một giai pháp kỹ thuật, một ưu thế chất liệu. Có điều càng về sau và đặc biệt từ thời “mở cửa” đến nay Sơn Ta- Sơn Mài đang tụt lùi rõ rệt.
Ngày nay nhiều họa sỹ vẽ tranh Sơn Mài, nhưng kỳ thực có Sơn mà không có Mài. Hay đúng hơn, họ chỉ cố vờn cho được hiệu quả nổi khối từng đối tượng thị giác trong tranh. Vẽ đến đâu thấy hiệu quả đến đó, giống như kỹ thuật vẽ sơn dầu, sau đó mài lướt qua lấy phẳng. Chiều sâu mà bức tranh có được là chiều sâu do hiệu quả sử dụng những quy tắc không gian, còn chiều sâu do hiệu quả phối trợ của các lớp màu trong không gian thực không còn nữa, cách vẽ này nói chính xác là Sơn chứ không Mài. Có thể nói nó phản ánh rất rõ sự hời hợt về chất liệu, sự non yếu chuyên môn và thậm chí cả sự thiếu kém về văn hóa của người họa sĩ.
Phần lớn họa sỹ trẻ đều nhanh nhạy ứng dụng kỹ thuật Sơn Mài mà lớp cha anh đi trước đã dày công nghiên cứu, thể nghiệm. Trong khi đó những tác phẩm kinh điển của thời Sơn Mài cực thịnh được xem như những thành trì kiên cố không thể bén mảng - của báu cất giữ trong thành không thể nhòm ngó. Kẻ đạo chích chỉ nhặt được vài thứ dao cùn, rẻ rách đã hí hửng vênh vang, cộng thêm những thứ hắn nhặt được ở bất kỳ đâu trong rừng Sơn Mài, ngấu nghiến cho đến bội thực, nghẹt thở và nôn mửa trên mặt vóc những thứ đã tham lam nhồi nhét vào bụng mà không tiêu hóa nổi; có rất ít người trong số họ biết lựa những thức ăn dễ tiêu hóa hợp với thể chất của họ. Nhưng cái mà họ đạt được vẫn chỉ là cuộc chơi trang trí thị giác non kém, vụng về và nhạt nhẽo. Kẻ vay nặng lãi đang khoe mẽ giầu sang tột bậc... hơn bao giờ hết cái nghèo nàn về tâm hồn có dịp lộ rõ.
Lại có kẻ hân hoan về phép thắng lợi trong cuộc cách mạng kỹ thuật nhằm kích thích hầu bao của những kẻ lắm tiền nhưng thiếu thẩm mỹ. Đổ nhăn, đổ chảy, tạt sơn... rặt những thứ xảo thuật rẻ rúng bên những màu sắc xanh xanh, đỏ đỏ, lòe loẹt kệch cỡm. Sơn Ta bên Sơn Nhật, sơn tổng hợp... xập xí, xập ngầu tưởng chưa bao giờ sự gá duyên trắng trợn chừng ấy.
Chưa hết, thể theo thẩm mỹ của thứ công chúng nhạt nhẽo kia, kẻ nhân danh nghệ sỹ chân chính bằng mọi cách có thể khoác cho bức Sơn Mài giả cầy nông choèn, trơ trẽn, những lớp bóng trợt trên bề mặt càng làm cho nó cầy hơn, trơ trẽn hơn để theo kịp thị hiếu của kẻ mua nó và hỉ hả kẻ sinh ra nó bằng thù lao hậu hĩnh.
Từ lúc Sơn Ta được người ta phát hiện, phát triển những phẩm chất tốt đẹp nhất của nó, đến khi bước rẽ thành tên gọi Sơn Mài gặp không ít khó khăn, nhưng thật chưa bao giờ Sơn Ta - Sơn Mài chịu nỗi sỉ nhục, đau đớn, xót xa từ cái vạ lây mà thứ Sơn Mài giả cầy kia đưa lại như vậy.
Thiết tưởng những họa sỹ hay kẻ nhân danh họa sỹ chuyên sản xuất những tranh giả cầy ấy, khi tự nguyện làm ông chủ của những xưởng mỹ nghệ thì việc kiếm tiền có lẽ trở nên thiết thực và sáng tỏ, minh bạch hơn nhiều - Qua đó cũng tránh cho Sơn Ta - Sơn Mài thoát khỏi vạ lây.
Hiện nay, có nhiều họa sỹ gắn lên mặt vóc nào xi măng, giấy dó, gốm, gỗ,vải và cả bulông, ốc vít, bát đĩa,...
Cùng với xu thế phát triển xã hội, Sơn Ta năng động trở mình là điều tất yếu. Tuy vậy một khi đi quá giới hạn có thể, danh không còn đúng với vật thì nhất thiết phải tìm cho vật mới một cái danh mới: Chất liệu tổng hợp trên vóc?
Một sinh viên làm bài tốt nghiệp mỹ thuật môn lụa kể lại với tôi rằng: Gỉang viên hướng dẫn cậu ta nói: Thời buổi bây giờ khác rồi, làm cái gì cũng phải tốc độ, cậu không nên ngồi tô từng lớp màu loãng như thế nữa. Phải vẽ thế này đây: Vẽ ào ạt,vẽ đậm màu... Kết quả là sau khi vị giảng viên kia thị phạm, bức lụa của người sinh viên trở nên đen ngòm.
Khỏi cần bình luận, hẳn quý vị hình như sơn mài đang tụt lui bằng chính những suy nghĩ tương tự: Đây là thời đại tốc độ, thời gian quý hơn vàng, cụ thể tính bằng tiền đô! Và thế là Sơn Mài Ta phải được thay thế bằng Sơn Mài Nhật (Cho nhanh khô)! Làm bóng ư? Có nhiều cách! Nội dung tư tưởng ư? Không cần, (Sơn Mài vẫn hợp với trừu tượng đó thôi)!. Chiều sâu chất liệu ư? (Lạc hậu )! Làm gì có thời gian để công chúng thưởng thức những thứ đó! Hê hê!!! Vẽ thả phanh đi! Và rồi thả phanh cho Sơn Nhật nhảy nhót (vì nó thiết thực, cụ thể kiếm tiền nhanh, mà cũng đỡ lao tâm, lao lực vì chinh phục chất liệu). Thả phanh cho Sơn Ta - Sơn Mài tuột dốc và khuất bóng!
Viết đến đây tôi như nghe tiếng hò hô hai ba nào...thả (cho Sơn Mài tuột dốc) và cũng nghe sượt tiếng thở dài của họa sỹ Nguyễn Gia Trí: “Thời của minh đã hết rồi” (Họa sỹ Nguyễn Gia Trí nói về sáng tạo - Ghi chép của Nguyễn Xuân Việt). Chưa đầy một phần ba thế kỷ Sơn Mài đã tạo dựng được những thành côngvững chắc khẳng định vị tri độc lập của chất liệu và có lẽ nào cũng chưa đầy nửa thế kỷ Sơn Mài đã trên đà tuột dốc để lại nỗi tiếc nuối, xót xa không chỉ cho Nguyễn Gia Trí người suốt đời gắn bó với Sơn Mài mà còn cho cả công chúng yêu Sơn Mài, biết quý trọng giá trị của Sơn Mài.
Vâng! Sơn Mài quả là đang tụt dốc với nhiều lý do chính đáng và quá nhiều điều oan ức!.
Quả thật đây là thời đại của tốc độ mà hầu hết các lĩnh vực đang phát triển với một kỷ lục chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Cả thế giới đang rùng rùngtrên một cỗ xe tốc độ cực lớn. Tốc độ và tốc độ chóng mặt!. Chớp mắt một sản phẩm trí tuệ vừa ra đời đã trở nên lạc hậu... nhưng người làm Sơn Mài thì đi ngược lại, làm cái gi cũng chậm; Cái chậm ấy liệu có phải là những phút giây tĩnh lặng? nghỉ ngơi? Là thiền? Hay cân bằng sinh học?
Người biết vẽ sơn mài là người biết dựa vào cái chậm để lặn lội trở về nguồn.


Họa sỹ: Phạm Huy Hùng
read more...

Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Làng nghề, Tranh sơn mài: Làng Nghề Sơn Mài Tương Bình Hiệp

Làng nghề, Tranh sơn mài: Làng Nghề Sơn Mài Tương Bình Hiệp (Thị Xã Thủ Dầu Một - Tỉnh Bình Dương)
Tác giả: Bùi Thị Hoa






Mài tranh

Theo nguồn sử liệu địa phương thì đến giữa thế kỷ 18, lớp lưu dân từ miền Bắc, từ xứ Ngũ Quảng xa xôi đã xuôi theo dòng sông Sài Gòn đến tụ cư, lập nghiệp ở huyện Bình An (Thủ Dầu Một). Trong số đó, có nhiều người tìm về vùng đất Tương Bình Hiệp hoang vu, cùng hợp sức khai phá đất, làm nông nghiệp dọc theo triền sông Sài Gòn. Mãi đến năm 1861, khi Pháp chiếm huyện Bình An thì địa danh Tương Bình Hiệp mới xuất hiện và trở thành một trong mười xã thôn của tổng Bình Thổ thuộc tỉnh Thủ Dầu Một.
Đến cuối thế kỷ 18, theo dòng di dân, nhiều lớp thợ sơn mài từ đất Quảng Bình, Thuận Hóa đã mang theo nghề sơn vào tận xứ Đồng Nai, Gia Định trong đó có Tương Bình Hiệp. Tuy nhiên, Tương Bình Hiệp, thoạt đầu mới chỉ có một vài hộ chuyên làm sơn son thếp vàng và pha chế sơn then. Đến mãi về sau, làng nghề Tương Bình Hiệp dần dần phát triển, thợ Thủ sơn mài trở nên nổi tiếng khắp vùng Nam Kỳ lục tỉnh. Theo lời một số nghệ nhân, vào khoảng cuối những năm 30 của thế kỷ XX, hai ông Năm Nhương và Ba Lắm sau khi học xong lớp dạy nghề sơn mài ở Trường Mỹ nghệ thực hành Thủ Dầu Một đã về làng mở cơ sở sơn mài. Sau đó, khoảng cuối thập niên 40, ông Lê Văn Có – mọi người thường gọi thầy giáo Có hay giáo Sơn cũng trở về làng dạy nghề cho con cháu và lớp thanh niên trong làng. Cứ thế, kỹ thuật sơn mài được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.


Cẩn xà cừ

Thập niên 50 của thế kỷ trước, với sự xuất hiện của xưởng sơn mài Thanh Lễ do hai ông Trương Văn Thanh và Nguyễn Thanh Lễ gây dựng đã tạo nên một mốc son mới cho chiếc nôi sơn mài Tương Bình Hiệp. Với sự đóng góp của những nghệ nhân tài hoa, xuất sắc như: Thái Văn Ngôn, Ngô Từ Sâm, Trương Văn Cang, Trần Văn Nam và một số thầy giáo Trường Mỹ nghệ thực hành Thủ Dầu Một như: Châu Văn Trí, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn Văn Tuyền đã góp phần đưa loại hình sơn mài bước sang một giai đoạn mới, mẫu mã sản phẩm ngày một đa dạng, nổi tiếng. Từ xưởng vẽ, sơn mài bước ra ngoài cuộc sống, đi về các làng nghề tạo nên sự hội ngộ diệu kỳ giữa họa sĩ và nghệ nhân. Nhiều cơ sở sơn mài mọc lên, sản phẩm ngày càng phong phú, đa dạng đáp ứng được thị hiếu thẩm mỹ, nhu cầu sử dụng của khách hàng và Tương Bình Hiệp trở thành một thương hiệu nổi tiếng.
Sơn mài gồm nhiều thể loại như: sơn lộng; sơn mài vẽ lặn, vẽ phẳng, vẽ nổi, thếp vàng bạc, sơn mài cẩn ốc, cẩn trứng và sơn khắc,… Sơn truyền thống dùng ở Tương Bình Hiệp là một hỗn hợp sơn Nam Vang và sơn Phú Thọ được pha chế riêng khác với các vùng khác trong nước. Trong khâu chế biến sơn, đánh sơn cho chín được xem là một khâu quan trọng, đòi hỏi tay nghề, quá trình tích luỹ kinh nghiệm lâu năm của người thợ sơn. Để tạo sơn quang đen, người thợ cho sơn sống vào chảo sắt và phải dùng chày sắt đánh sơn ở ngoài trời nắng để sơn được đẹp màu. Sau khi pha tòng chỉ xong, tiếp tục đánh sơn cho đến khi nào sơn dẻo lại, trong, thấy màu đen bóng, mượt là được. Còn đánh sơn cánh gián thì ngược lại. Sơn sống được đổ vào loại chậu gỗ và dùng chày gỗ đánh quấy sơn. Người thợ đánh sơn trong nhiều ngày cho đến khi sơn chín, nổi bọt lăn tăn, sơn trong suốt tựa màu cánh con gián nên gọi là sơn cánh gián. Với sơn cánh gián, người nghệ nhân pha chế các màu khác nhau, nhưng pha với liều lượng như thenào còn phụ thuộc vào kinh nghiệm, tay nghề của từng người. Chẳng hạn như, để pha được màu marông trông sang trọng, ấm áp làm khung tranh, hay làm mặt bàn, ghế thì đó còn là một bí quyết sử dụng phù hợp lượng bột chu đỏ với bột chu hồng cánh sen.


Một số cơ sở sơn mài tại làng Tương Bình Hiệp

Sau khi đã có nguyên liệu sơn, tùy theo loại sản phẩm mà cốt được tạo bằng những chất liệu khác nhau, như: gỗ dùng làm bàn ghế, tủ, bình; ván ép dùng làm tranh, hộp; gốm dùng làm bình, tượng; vải hay giấy dùng làm cốt cho những sản phẩm thường có kiểu dáng nhẹ, mỏng như bát đĩa, lục bình,... người thợ mới bắt đầu thực hiện khâu phất vải cho cốt mộc. Sau công đoạn phất vải, thông thường người thợ phải qua 5 công đoạn sơn: sơn bó, sơn hom, sơn lót, sơn quang thí, sơn quang và sau mỗi lớp sơn đã khô đều phải đem ra mài nước. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của nghệ nhân Tám Khiêm, chỉ mài sau khi hoàn tất xong từng công đoạn, không cần thiết cứ mỗi lớp mỗi mài và tuỳ thuộc vào tạo tác loại sản phẩm là tranh khổ lớn, khổ bé, là cẩn ốc, cẩn trứng, dát vàng dát bạc hay là một loại đồ mỹ nghệ cụ thể nào đó mà sơn có thể lên 16 đến 30 lớp.
Đối với sản phẩm cẩn ốc, sau khi phất vải xong, người thợ lấy sơn sống trộn đều với bột thạch cao để làm sơn hom. Khi hom chừng 2-3 lớp thì đem cẩn ốc. Các nghệ nhân đã biết khai thác màu sắc, chất liệu từ nhiều loại ốc khác nhau như: xà cừ, ngọc nữ, bào ngư, trai đỏ, trai trắng, xác trắng, xác vàng, vẹm xanh,… để tô điểm, sáng tạo cho tác phẩm của mình. Căn cứ theo đề tài định khảm, ốc được lựa chọn cẩn thận, sau đó người thợ vẽ can lại mẫu lên từng mảnh ốc. Theo nét vẽ, những người thợ sẽ thực hiện khâu cưa ốc rồi mới ráp lại thành hình. Ở công đoạn này đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn của người thợ lành nghề khi cưa những đường nét thật mảnh mà tránh bị đứt gãy. Cưa ốc xong đem ghép ốc theo đúng mẫu rồi dùng sơn sống dán từng mảnh ốc lên bề mặt sản phẩm. Ốc dán xong, đem hom tiếp cho đến khi nào sơn bằng mặt ốc là được. Công đoạn cuối, người thợ phủ lên tranh một lớp sơn quang bóng, đem ủ cho thật khô rồi mới tiến hành đánh bóng cho sản phẩm.
Dù vẽ hay cẩn ốc, tranh và sản phẩm sơn mài đều được mài dần ra, cắt bỏ lớp sơn, màu phía trên để lộ lớp màu cần giữ lại. Sau khi đã mài hoàn chỉnh là công việc đánh bóng, cũng hết sức công phu, tỉ mỉ.


Các sản phẩm sơn mài

Trong những năm vừa qua, sản phẩm sơn mài Tương Bình Hiệp chịu sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, nhiều doanh nhân, nghệ nhân đã co những biện pháp để sản xuất sơn mài hàng loạt. Mẫu mã trở nên luôn luôn mới, đáp ứng cho mọi loại hợp đồng và khách hàng trong, ngoài nước. Tuy nhiên, trong cái nhộn nhịp của thị trường sơn mài áp dụng kỹ thuật mới, sơn mài truyền thống làm từ chất liệu sơn ta đang thiếu vắng dần. Ví dụ như nhiều nghệ nhân đã kết hợp dùng sơn PU làm lớp sơn phủ ngoài, giúp cho việc sản xuất trở nên nhanh và dễ dàng hơn nhưng chính kiểu làm sơn mài giả này sẽ làm mất đi vẻ đẹp của sơn mài truyền thống và làm mất danh tiếng làng nghề. Đáng lo là lớp thợ trẻ bây giờ ít người còn mặn mòi, tâm huyết với nghề sơn mài truyền thống. Vì dùng sơn ta giá thành cao, kỹ thuật pha chế lại phức tạp, tốn nhiều thời gian, công sức nên ngày nay, đa phần các cơ sở đều dùng sơn Tây - loại sơn hạt điều làm chất liệu chính cho sơn mài, vì loại sơn hóa chất đáp ứng được màu sắc, cho ra sản phẩm nhanh, không mất nhiều công, giá thành lại rẻ. Có thể nói trăn trở về một làng nghề truyền thống đang dần mai một và liệu ngày mai, trong dòng chảy cuộc sống hiện đại, kỹ thuật dùng sơn ta trong quy trình sản xuất sơn mài còn giữ được sức sống của nó?
Song có một điều không thể phủ nhận, là độ bền, độ bóng đẹp của chất liệu sơn ta đã làm cho sản phẩm sơn mài trở thành thứ ngôn ngữ của thời gian. Vẫn có những người khách sành điệu tìm đến các sản phẩm sơn mài đích thực, điều đó càng chứng tỏ được sức bền và một vẻ đẹp lộng lẫy của sơn ta. Cũng chính vì thế, bác Tám Khiêm và một số ít ỏi nghệ nhân trong làng vẫn đặt yêu cầu chất lượng sản phẩm lên hàng đầu và vẫn âm thầm trung thành với chất liệu sơn ta... Thiết nghĩ, tìm một con đường để phát triển là tất yếu song cũng hết sức khó khăn khi mà loại hình sơn mài mỹ nghệ truyền thống vẫn chưa tìm được một tiếng nói chung cho một chất lượng sản phẩm mang thương hiệu Tương Bình Hiệp theo đúng nghĩa.

B.T.H
read more...

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

Tính Cách Của Thành Phố








Tính Cách Của Thành Phố









BÙI HẢI SƠN. Lúa nước. Inox, thủy tinh



Người Sài Gòn và Nam Bộ gọi Tp. Hồ Chí Minh là Thành phố, phân biệt với các thành phố khác trong cả nước. Bởi thành phố này khác hẳn các thành phố khác. Là thành phố hiện đại, thực dân đầu tiên ở Việt Nam nay Thành phố đang ngấp nghé ở cửa vào câu lạc bộ siêu đô thị và trung tâm kinh tế tài chính của toàn khu vực. Nhiều người thường hỏi về bản sắc của văn hóa, cụ thể hơn là của mỹ thuật nơi đây so với Hà Nội. Lại hay có câu hỏi, yêu cầu lạ lùng là : Làm sao có nền văn học, nghệ thuật, có tác phẩm ngang tầm đất nước, tầm thủ đô, tầm thành phố. Mà thực tế là ngược lại, chính các tác phẩm đã và đang có xác định tầm của đất nước, của kinh đô hay Thành phố!
Còn người sáng tác thì đâu có đặt cho mình trách nhiệm phải ngang tầm nào. Họ chỉ mong tác phẩm của mình, tính cách nghệ thuật của mình được người xem chấp nhận mà thôi.
Trước đây, gần hai chục năm có một triển lãm của 10 họa sĩ thế hệ đổi mới bày toàn tranh trừu tượng tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Lúc đó trừu tượng còn mập mờ vùng cấm kỵ. Song, cái quan trọng là các đồng nghiệp thấy rằng hình như trừu tượng “hạp” với tính cách của thành phố này và hình như ở đây trừu tượng là chính nó hơn là ở các nơi khác (trong khi họa sĩ Hà Nội hợp hơn với những di sản thôn quê, đình chùa…) Ý nghĩ ấy có thể là ngây ngô nhưng lại khá đúng sự thực.
Và Symposium Điêu khắc Sài Gòn 2006 vừa khai mạc ngày 14/10 tại tòa nhà Hội Mỹ Thuật Tp. Hồ Chí Minh, bày 34 tác phẩm của 10 người: Trần Thanh Nam,










TRẦN VIỆT HƯNG. Những cái chai nhảy múa. Đá, thủy tinh

HOÀNG TƯỜNG MINH.Kết nối I. Sắt

NGUYỄN THÀNH TUỆ. Chân dung. Composite



Lương Văn Thạnh, Vĩnh Đô, Bùi Hải Sơn, Phan Nhất Phương, Trần Việt Hưng, Ngô Liêm, Hoàng Tường Minh, Nguyễn Thành Tuệ, Nguyễn Anh On - sau 20 năm lại cho tôi một ấn tượng và một hy vọng mạnh mẽ như vậy. Vài trăm khách khai mạc ai cũng thấy đây là highlight - điểm sáng của đời sống mỹ thuật, của điêu khắc ta suốt cả thập niên vừa qua. Lánh xa cái mệt mỏi của tượng đài, cái nhàm chán của tượng trang trí, phủi hết bụi bặm của cuộc làm - ăn bằng “giả nghệ thuật”, chối từ những khuôn khổ bao cấp các tác giả tự tổ chức một symposium nghệ thuật và học thuật với một vẻ tươi trẻ và sự sung sức bất ngờ (dù họ đều đã trên 40 cả rồi!).






NGÔ LIÊM. Đôi. Composite



Đằng sau sự khác nhau của mỗi người, tôi lại thấy những dòng chảy chung, tạo nên một khuynh hướng hay một tuyên ngôn của nhóm? Trước hết là đồng thanh “nói không” với cái đã nhàm chán của sự tả thực hời hợt, của chủ đề to tát mà trống rỗng. Không hoàn toàn lạ hoắc nhưng ở đây không thấy những cái làm ta phải thốt lên “biết rồi nói mãi”. Tính kết cấu, kiến tạo trở thành da thịt và hơi thở chứ không chỉ là khung xương của tác phẩm. Các kết cấu thép, Inox, gốm, đá, kính tĩnh của Trần Việt Hưng, Trần Thanh Nam, Ngô Liêm vững chãi; các kết cấu động của Bùi Hải Sơn, Phan Nhất Phương chuyển động thật tế nhị, trữ tình…. Những băng thép đỏ uốn lượn của Vĩnh Đô yểu điệu như múa lụa. Việc sử dụng hỗn hợp các chất liệu xây dựng hiện đại tự nó cũng có tác dụng làm mới những gì đã quen.
Tính ý tưởng cũng xuyên suốt triển lãm. Hình như cái quan trọng trong sáng tác hiện thời là phải có ý tưởng , thời của kinh tế trí thức và sở hữu trí tuệ mà lại! Trong khi Chat của Nguyễn Thành Tuệ nối hai nửa đầu bằng các xoáy Inox đùa hơi lộ về các kết nối ảo thì Bẫy của Nguyễn Anh On hài hước vỗ mặt với một cái giống như cái bẫy chuột đen xì và hai trái đỏ ai cũng đoán là bầu vú. Kết nối 1 và 2 của Hoàng Tường Minh gợi nhà cao tầng hay cáp quang nhưng lại giễu cợt sự kết nối hóa ra ràng buộc, làm rối lẫn nhau!
Nét chung cuối cùng tôi nhận thấy ở đây là sự giã từ thẩm mỹ modernism với những trò chơi hình khối và ngôn ngữ thuần túy mà phần lớn các tác giả U50, U60 còn luyến tiếc. Có hơi hướng hậu hiện đại ở đây chăng? Theo tôi, nhãn mác chưa quan trọng, cái chính là tính chất đã đổi.
Có thể hơi quá khi tôi nghĩ rằng, triển lãm này tạo ra được tính cách đô thị hiện đại của thành phố chúng ta nhưng xin cho tôi quyền hy vọng, bởi tôi biết ngoài các tác giả ở đây thành phố còn khá nhiều tài năng khác nữa.
Địa phương nào cũng hô là chiêu hiền, tìm người tài nhưng tài năng tại chỗ đây đâu có ai dùng! Tiếc thay.


N.Q.
read more...

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Art news : Top 10 Khuynh Hướng Nghệ Thuật Đương Đại (Kỳ 1)

Art news : Top 10 Khuynh Hướng Nghệ Thuật Đương Đại (Kỳ 2)
KÌ 1: XEM TẠI ĐÂY

Edith Newhall

NGHỆ THUẬT GOTHIC MỸ

Hình ảnh về cuộc nội chiến và những khoảnh khắc đen tối trong lịch sử quốc gia là đề tài mà nghệ sĩ thể hiện những mối quan tâm về hiện tại
Tác phẩm “Một thế kỷ của tháng mười một” tại trung tâm của Dario Robleto 2005 là một cái áo đầm để tang của đứa trẻ được làm bằng giấy. Bột giấy được nhào nặn từ những bức thư của những người lính không bao giờ trở về từ chiến tranh. Áo đầm được trang trí bằng mực chích từ những bức thư, những cái nút bằng xương có hình khắc, những bông hoa tết bằng tóc của một góa phụ thời nội chiến, vải xưa và ren được khâu bằng chỉ phẫu thuật của thế chiến thứ hai.
Robleto vẽ về những đề tài quá khứ của nước Mỹ - phần nhiều về mặt đen tối, những điềm gở báo trước, ám ảnh sự nhận diện về nước Mỹ. Điều đó có thể thấy trong những tác phẩm của Kara Walker với những câu chuyện về nô lệ, những tác phẩm sắp đặt với súng trường bằng gỗ và trình diễn về những trận nội chiến của Allison Smith, hay những bức tranh biểu hiện của Brad Kahlhamer.


"Dr.Mary Edwards Walker (mặc đồ xanh) và Eliza Wilson trong bộ binh tình nguyện Wisconsin thứ 5", 2005, của Allison Smith, chất liệu sứ và tổng hợp
Những nghệ sĩ của nghệ thuật Gothic Mỹ không hẳn chỉ là những người Mỹ. Bức vẽ “Dự án cho một thế kỷ nước Mỹ mới” (2004) của họa sĩ người Anh Dominic McGill là một đồ thị gợn sóng lịch sử về sự vận động không nghỉ của xã hội và sự hung hăng của quân đội. Hai nghệ sĩ Canada Janet Cardiff và George Bure Miller lại nổi tiếng cho cuốn video kỳ quái của họ về những khu trại cải tạo phía đông ở Philadelphia, là nơi lần đầu tiên áp dụng việc giam hãm tù nhân cách biệt một người trong nhà tù lớn.
Sự khủng hoảng của sự kiện ngày 11 - 9 - 2001 hiện ra lờ mờ “đầy vẻ đe dọa” trong chương trình “Greater New York” tại Trung tâm Nghệ thuật đương đại P.S.1. Người phụ trách Bảo tàng Nghệ thuật Klaus Biesenbach nói: “Nhiều nghệ sĩ không thể tránh khỏi việc đối diện với ngày 11 - 9, họ nhìn vào lịch sử nước Mỹ để xem làm sao những người khác có thể sống qua thời gian khủng khiếp đó”. Ông chỉ vào những bức vẽ của Smith, McGill giải thích: “Nếu anh làm tác phẩm về lịch sử, nó sẽ không sống
nổi nếu nó không nói về tương lai hay những gì học được từ quá khứ”.
Với hoạt hình kỹ thuật số “Bộ ba Winchester” (2002 - 04), tác phẩm của Jeremy Blake lấy cảm hứng từ lâu đài kiểu Gothic, mà người thừa kế Sarah Winchester xây ở California cuối thế kỷ 19 để an ủi những linh hồn con người và thú vật đã bị giết bởi những khẩu súng Winchester. Tác phẩm của Blake tại Bảo tàng đương đại Feigen ở New York có giá từ 10.000 $ đến 30.000 $.
J.Morgan Puett có thể thay đổi toàn bộ không gian kiến trúc bằng những đạo cụ và trang phục sân khấu. Dự án nghệ thuật công cộng của cô “Cuộc họp bị lỡ” (2005), đã biến phòng họp bỏ hoang của giáo phái Quaker thế kỷ 19 ở Pennsylvania thành phòng vẽ hiện tại để nghiên cứu văn hóa vật chất của những giáo hữu Quaker, cũng như lịch sử của tòa nhà. Margaret Kilgallen, người nghệ sỹ chết năm 2001 khi cô 33 tuổi, có những bức tranh đồ họa trên tường rất táo bạo. Tác phẩm được nối lại với nhau với những từ và hình ảnh, là nét đặc biệt của cuộc triển lãm 2001 do Baker tổ chức cho Viện Nghệ thuật đương đại Philadelphia.
Những tiền đề của nghệ thuật Gothic Mỹ bao gồm sự tập hợp những vật thờ cúng của Bruce Conner, chuyện lịch sử của nhà làm phim Eleanon Antin và “Sự hài hước vô tội” của họa sĩ và điêu khắc gia William Wiley. Gần nay là sự sắp xếp lại những bộ sưu tập bảo tàng của Fred Wilson, những mẫu vật cách tân của Elaine Bloom. Nhưng tâm điểm vẫn là những cá nhân đại diện, khắc họa chân dung một nước Mỹ can trường, những nghệ sĩ đả phá tín ngưỡng như Jackson Pollock, Ed Kienholz, Robert Smithson và Bruce Nauman, hay những nhiếp ảnh gia như William Eggleston, Lee Friedlander và Stephen Shore; hay được thể hiện trong âm nhạc của Woody Guthrie và John Fahey, trong áng văn của William Carlos Williams, Hunter S.Thompson, nhà lịch sử văn hóa Grei Marcus.
Nghệ thuật Gothic Mỹ không hề phát xuất từ nghệ thuật hậu hiện đại những năm 1980, với những nghệ sĩ như Mark Tansey hay Mc Dermott và McGough; mà nó thông thường là nghệ thuật trình diễn ở những khu vực đặc thù của những năm 1960 và 70; với nghệ thuật đầy nữ tính, nó tìm kiếm để khai phá huyền thoại văn hóa đã được chấp nhận và thậm chí cả tính đa văn hoá, cùng đặc điểm chính trị những năm 1990. Nó không đòi hỏi người ta phải đồng ý với những dữ kiện lịch sử cũng như mốc thời gian, nhưng nó đặt ra những câu hỏi làm thế nào mà lịch sử hình thành?.
Annette Carlzzi, nhà phụ trách Nghệ thuật đương đại tại Bảo tàng nghệ thuật Blanton của Trường đại học Texas ở Austin đồng ý rằng: à cách mà Robleto và Blake đang làm. Họ không trích dẫn những khoảnh khắc đặc thù nào. Bạn có thể bắt đầu với 1 ví dụ lịch sử điển hình, rồi gộp chung nó với những sự kiện không thật. Đó là cách để hỏi mà hoàn toàn không cần câu trả lời và là cái to lớn mà nghệ thuật mang lại”.

Elisabeth Kley
HÃY XÂU NÓ VÀO
Triển lãm 1989 “Những thầy phù thủy của thế giới” tại trung tâm Pompidou – Paris bao gồm những tác phẩm nghệ thuật mới nhất và không theo truyền thống Phương Tây, do Jean-Hubert Martin tổ chức. Ông nói: “Những nghệ sĩ cấp tiến luôn làm những gì bị cấm. Và đó là lý do Liza Lou chọn làm việc với hột, vật liệu rẻ tiền đối với những nhà sử gia và phê bình nghệ thuật Mỹ – Au”. Triển lãm cá nhân 2004 của Lou tại Deitch Projects – New York, cô đã trét thạch cao lên các bề mặt bên trong của một ngôi nhà di động, và gắn những hột đen, trắng lấp lánh lên giấy và bàn. Lou hiện sống tại Nam Phi, cộng tác với những người thợ kết cườm Zulu cho triển lãm sắp tới của cô tại gallery White Cube ở London.

Liza Lou trong trình diễn "Traller", 1999-2000, một căn nhà di động với bề mặt bên trong phủ hột cườm
Lou chỉ là một trong nhiều nghệ sĩ chuyển sang làm việc với những chất liệu thủ công. Andrew Lord bắt đầu triển lãm những cái bình của mình năm 1981 tại gallery Donald Young, Chicago. “Hơi thở” (1996), là chiếc bình sứ được tạo ra bằng cách ôm giữ đất sét trước ngực khi ông ta thở. “Lắng nghe” (1998) được cấu tạo bằng những dấu ấn của tai, và “Cắn” (1995 - 98) là những dấu răng của chính ông. Lá vàng hay đồng được gắn vào những chỗ nối hay rãnh của những chiếc bình, như đặt thêm sức mạnh cho hình dáng và làm nổi bật vẻ duyên dáng kỳ lạ từ đất.
Sự giao nhau giữa nghề thủ công và mỹ thuật đã bắt đầu từ đầu thế kỷ 20, với những thiết kế đồ, vải của Sonia Delauney và Lyubor Popova, những tấm vải dệt của Anni Albers, những tấm thêu và con rối bằng gỗ của Sophie Taeuber-Arp. Vào những năm 1960 và 1970, những nữ nghệ sĩ California đã sử dụng cách may và thêu như là những yếu tố trong tranh và tượng với những lý do chính trị. Những nghệ sĩ trang trí và thiết kế đã đi theo con đường của họ. Những nghệ sĩ như Arch Connelly, Thomas Lanigan-Schmidt và Nicholas Moufarrege đã sử dụng nữ trang, kim tuyến và đồ thêu. Jim Isermann làm những bức tranh hình học, điêu khắc Tối thiểu.
Christine Y Kim, người đồng phụ trách với Thelma Golden của triển lãm “Sự thường xuyên” của những nghệ sĩ Mỹ gốc Phi mới nổi tại Studio Museum ở Harlem, nói: “Trong những năm 1990, với những buổi thuyết trình toàn cầu trong Nghệ thuật đương đại, đã có một mối ác cảm đối với tính đa cảm và nghề thủ công. Nhưng bây giờ chúng ta thấy rất ít khoảng cách đối với những thứ đáng lẽ cần được quan tâm một cách chính đáng, như tình cảm, nghề thủ công, những đồ làm bằng tay, người Mỹ gốc Phi, nữ giới…”
“Những bộ đồ âm thanh” của Nick Cave được may từ những đồ trang trí lòe loẹt bỏ đi. Được đặt tên do những âm thanh phát ra khi mặc trong những buổi trình diễn khiêu vũ, từ tiếng huýt như rắn khi di chuyển những đồng xu cho đến tiếng gõ lách cách của những nắp chai. Những bộ trang phục kín người và những bộ tóc cầu kỳ của Cave tại gallery Jack Shainman, New York, đã biến những người mặc nó thành những ông già tuyết ghê tởm với những nhánh cây, những đôi vớ cũ, bầu đựng nước, hoa làm bằng rơm, tóc người, khăn lông.
Theo như Amy Smith Stewart, người phụ trách Trung tâm Nghệ thuật đương đại P.S.1 ở thành phố Long Island thì: “Nền văn hóa tiêu thụ tôn thờ những cái bóng bẩy, tinh tế và kỹ thuật cao. Trong khi đó, nghề thủ công thiên về những kinh nghiệm cảm giác của vật chất xúc giác và gợi lên ký ức về mối liên hệ người với người”. Điều này rất thích hợp với tác phẩm của Larry Krone tại triển lãm cá nhân ở Bảo tàng Nghệ thuật đương đại St. Louis mùa thu này, Krone nối những mảnh vải thành một màn gió dài 45 foot. Chắp lại từ những tấm trải giường đầy màu sắc của Mylar. Những dải vải này khi treo lên cửa sổ của bảo tàng, nó sẽ tỏa sáng lung linh như kiếng màu có vạch, được sử dụng như phông nền của màn trình diễn về gia đình và những người bạn của ông, mặc những trang phục cầu kỳ do ông may bằng tay.
Sự đa dạng về chất liệu có thể thấy trong tác phẩm của Randy Wray “Những cái lọ linh hồn” (2004 - 05) là 1 bộ sưu tập những bình gốm màu sáng làm bằng tay được phủ với mảnh gương, vỏ sò, kim tuyến, nắp chai và nấm khô, đã đẩy nghề thủ công trang trí chai lọ thông thường lên đỉnh điểm rồ dại. Khi những ngọn nến được thắp sáng và đặt vào giữa hai cái chai màu trắng cao nhất, tác phẩm trở thành một bàn thờ, gợi nhớ tới những ký ức Thiên Chúa Giáo.
Tại Trung tâm Nghệ thuật Thị giác MIT List, người phụ trách Bill Arning, thường viết bài về Wray, chỉ ra rằng: “Thậm chí ở thời đại chúng ta, khi mà mọi thứ đều tiến triển, những kỹ thuật mỹ thuật vẫn mang hơi hướng hàn lâm. Việc chuyển sang những kỹ thuật thủ công cho phép những nghệ sĩ để thế giới nội tâm của mình tự nở hoa”.
Những nghệ sỹ không hề lung túng khi sử dụng vải, hột, đất sét và những vật liệu thủ công khác để tạo ra những tác phẩm và “để tự thế giới bên trong chúng nở hoa”

Carly Berwick
HÒA BÌNH, TÌNH YÊU VÀ SỰ HIỂU LẦM

Một khuôn mặt quen thuộc lởn vởn phía trên một đống những lon nước súp Campbell, những huy hiệu đoàn thể và tính cách mạng của những nắm tay giơ lên trong tác phẩm “Hoàng đế nước xốt cà chua” (2004) của Justin Faunce. Đó là Michael Jackson, với cái mũ beret của Che Guevara và mái tóc giống những hình của Alberto Korda, nhe răng cười như con mèo Cheshire trong vùng đất thần tiên hiện đại. Những tác phẩm của Faunce sàng lọc những thần tượng văn hóa Pop và đặt họ vào trong một kính vạn hoa cỡ lớn. Chẳng có tính chất cấp tiến cũng như đạo đức trong một xã hội tiêu thụ, điều đó được thể hiện trong những tác phẩm của Faunce.


"Hoàng đế nước sốt cà chua"của Justin Faunce, 2004
Những nghệ sĩ đang làm việc với những phương tiện khác nhau, để định lại giá trị của sự theo đuổi một thế giới hoàn hảo. Từ những trình diễn hài hước, châm biếm của Tamy Ben-Tor nói lên những đặc tính của một con người tự do ở phương Tây sầu khổ và của một quý bà đi dạo, cho đến những video của Sue de Beer tập hợp những sự lo âu tuổi thiếu niên và bạo lực cách mạng. Nhiều tác phẩm của họ là sự phản ứng lại những đổ vỡ của mộng tưởng sôi nổi. Phần lớn những nghệ sĩ này sinh ra trong những năm 1970, theo gót chân những cuộc cách mạng sinh viên năm 1968, trong thời đại của sự tái chế, nhận diện chính trị, chủ nghĩa chống vật chất.
Sau thế chiến thứ nhất, những nghệ sĩ từ trường phái Xây dựng Nga như Vladimir Tatlin cho tới những nghệ sĩ Vị Lai, những sinh viên trường phái Bauhaus, tìm kiếm cách tạo ra những hình ảnh hoàn toàn của một xã hội lý tưởng bằng những bản tuyên ngôn mạnh mẽ. Trong những thập kỷ kế tiếp, nhiều nghệ sĩ thể hiện lý tưởng nghệ thuật thuần khiết của họ trong việc gắn bó với một phong cách nhất định, như Trừu tượng hay Tối thiểu. Nhưng các chấn thương những năm gần đây, từ chiến tranh Iraq cho tới những cuộc tấn công nước Mỹ ngày 11 - 9, đã thúc đẩy “việc coi lại mối quan tâm rõ ràng về chính trị của nghệ sĩ” (Biesenbach)
Để trả lời cho nhận thức này, nhiều nghệ sĩ đang tìm cách tạo ra một sự cân bằng giữa dư luận xã hội và sự tham gia đầy hy vọng. Nghệ sĩ Thụy Sỹ Thomas Hirschharn đã viết e-mail cho tờ ART News rằng “Tôi tin nghệ thuật có thể thay đổi thế giới. Tôi không làm việc cho hòa bình và tình yêu. Tôi muốn làm việc bây giờ và ở đây, trong cái thô bạo và tình trạng không thể thấu hiểu được của thế giới”. Sắp đặt của ông “Sự quan tâm bề mặt” tại gallery Gladstone, New York, gồm sân khấu bằng gỗ được bao bọc bằng giấy cứng, lá kim loại, hình cắt ra từ tạp chí về cuộc chiến ở Iraq. Sắp đặt “Người đàn ông tiền sử ” (2002), ông đã biến gallery thành cái hang bằng giấy cứng, chứa đầy sách và những bộ phận TV hư và viết nguệch ngoạc những khẩu hiệu như “Một người đàn ông = một người đàn ông”. Trong sắp đặt “Không tưởng, không tưởng” (2005) tại Viện Wattis, trường Cao đẳng Nghệ thuật California, ông thể hiện chủ đề về ý tưởng và thực tế của “sự trang trọng thật sự” – kiểu phong cách được nâng lên từ những người tiên phong của nền văn hóa mới.
Trong tác phẩm của Josephine Meckseper, nền văn hóa thương mại, quyến rũ, thịnh vượng chịu sự chi phối bởi nền văn hóa mới suy tàn. Gần đây, cô lại trét bột lên những cửa sổ phía trước của gallery Elizabeth Gee – New York với những huy hiệu của gallery Duane Reade & Gagosian. Bên trong, những khối hộp bằng kiếng, một hộp hiển thị cái búa, liềm bằng bạc phản chiếu sự trang trọng thực sự tới tột đỉnh. Cô cũng mắc một khăn choàng đầu của người Palestin vòng quanh một mannequin mảnh mai. Gần đó, video về cuộc chống chiến tranh gần đây, nhìn có vẻ như cuối những năm 1960. Cũng như với những tác phẩm của Hinschhorn, sự bất mãn của cô đối với xã hội đương thời xuất phát từ mong muốn làm cho nó tốt hơn.
Một ký ức ngậm ngùi cho chủ nghĩa lạc quan của thế hệ hòa bình và tình yêu, có thể tìm thấy trong “Những kẻ chống đối hòa bình” (2003) của Jules de Belincourt. Một vòng tròn những người khỏa thân nắm tay nhau quanh lửa trại trong rừng; trong khi đó “Những kế hoạch mới đầy tham vọng” (2005) mang khoảnh khắc chính trị hiện tại. De Balincourt nói ông đang nghĩ về sự vô ích của cộng đồng đối với những nhà chính trị ngày nay.
Triển lãm của Carol Bove tại Maccarone, New York, gồm những sắp đặt nghiên cứu phi thường với những sách cẩm nang cuối những năm 1960 - 70. Bove thể hiện sự pha trộn giữa sự mong đợi và sự coi thường đối với quá khứ gần đây “Tôi nghĩ đó là giai đoạn đầy thích thú mà mọi người cố gắng làm lại thế giới”. Nhưng cô cũng nói “Những vấn đề của chúng ta hiện nay có nguồn gốc từ cuối những năm 1960. Tôi không thấy nó tách rời với thời đại chúng ta ngày nay”.
Nỗ lực làm lại bản thân và thế giới có thể mang những hình thức khác nhau. Video “Preah” (2005) của Corey McCorkle được chiếu vào mùa thu năm ngoái trong một nhà chứa thịt cũ ở New York. Video được quay ở Cambodia, có cảnh con bò liếm đầu của những người cầu xin, vì họ tin vào tính chữa bệnh của nước miếng động vật. McCorkle cũng quay tư liệu một thành phố ở nam Ấn Độ được sắp xếp trật tự xoắn theo nguyên lý “sự hỗn loạn thần thánh”, và ngôi làng xa xăm của Findhorn, Scotland, nơi những người dân nói những cái cây trò chuyện với họ. Qua đó ông muốn tìm tới cái cốt lõi của sự thiền định và tình yêu, hòa bình vẫn là những ý tưởng tốt.
Những nghệ sĩ hoài nghi đang nhận định lại
sự theo đuổi của một thế giới hoàn hảo

HILARIE M.SHEETS
NƠI NHỮNG CÂY NẤM THẦN KỲ NỞ HOA

Sự quá tải về cảm giác của cái đẹp phiêu diêu đã gây phấn khích cho đôi mắt và tinh thần
“Luôn luôn có sự hấp dẫn để làm mọi thứ đều có nghĩa. Nhưng vùng đất phiêu diêu trong sự hiểu biết của bạn là nơi tất cả sự hỗn loạn và mọi thứ đều nở hoa cùng lúc”. Tình cảm này của Lisa Beck, 47 tuổi, họa sĩ Brooklyn, vang vọng trong những tác phẩm của cô về những vòng tròn được sắp xếp ngẫu nhiên “trở thành có trật tự”, khi cô lập lại cái cách của Rorschach và khi cô phản chiếu chúng lộn ngược từ phía sau trong những trái banh acrylic. Xin chào mừng tới vùng đất phiêu diêu của thế kỷ 21: hình ảnh thị giác, không cần đến những loại ma túy mạnh.


"Căn phòng nấm lộn ngược", 2002, của Carsten Holler
Một trong những tác phẩm của Beck “Glimmerer” (2004) được trưng bày trong triển lãm “Những đồ pha lê kỳ lạ của sự tinh khiết bất thường” tại Trung tâm Mỹ thuật đương đại P.S.1, New York. “Cảm nghĩ về buổi triển lãm là những thứ lạ lẫm, đẹp đẽ gây phấn khích cho đôi mắt và tinh thần bạn, và thời gian đang dần chậm lại một chút”. Đó là ý kiến của Nickas, người đã xếp những tác phẩm thôi miên thị giác của những nghệ sĩ như Alex Brown, Jim Drain, Ara Peterson, và Fred Tomaselli bên cạnh tác phẩm của những bậc tiền bối như Bruce Conner và Harry Smith những năm 1960.
Trong một nền văn minh đang đối mặt với sự tràn ngập của hình ảnh và thông tin, tính chất trang trí lộng lẫy vẫn nổi trội hơn tất cả. Như “Những vòng pháo hoa 1-35” (2005) của Drain và Peterson, một không gian như kính vạn hoa của những vòng pháo hoa xoay tròn khổng lồ trong triển lãm “Hypnogoogia” của họ ở Deitch Projects, New York mùa thu vừa rồi. Nhưng những nghệ sĩ vẫn tiếp tục phát huy khả năng trong loại nghệ thuật dẫn đầu này, từ căn phòng đầy những cây nấm quá cỡ của Carsten Holler cho đến sắp đặt ánh sáng của Erwin Redl Nikas. Tác phẩm “Bàn tay giới hạn sa mạc” (2002) của Trisha Donelly, một tấm ảnh đen trắng chụp chân sau của con Sphinx. “Cô tưởng tượng rằng nếu chân của Sphinx nhấc lên thì tất cả các hạt cát đều bay vào trong không gian. Đó không phải do những màu sắc sáng và cuộn xoáy, mà nó thể hiện nhiều hơn về nhận thức và mơ mộng”
Những dự án Deitch đã khai thác trào lưu Tân phiêu diêu này trong catalogue gần đây “Hãy sống qua cái này: New York vào năm 2005”, để tôn vinh 25 nghệ sĩ, bao gồm Jules de Balincour, và những nhà sưu tập như Dearraindrop và Paper Rad, những người đến với nghệ thuật như là một trải nghiệm sống và tự do. Tác phẩm những vòng pháo hoa của Drain và Peterson có giá 150.000 $ cũng có mặt trong catalogue. Hai nghệ sĩ này trước đây là thành viên của nhóm 4 người trong bộ sưu tập Forcefield ở Providence. Tại giải thưởng 2 năm Whitney 2002, nhóm đã gây nhiều sự chú ý với cái hang không gian nhốt những sinh vật có trang phục ngoài trái đất vừa nhấp nháy vừa kêu bíp bíp. Mặc dù bộ sưu tập có tiếng vang từ giải thưởng 2 năm, song tác phẩm của họ vẫn tác động tới những nghệ sĩ trẻ tuổi. Nhưng những nhà cách tân này không hẳn là sao chép phong cách những năm 1960; đúng hơn là họ đang cập nhật nó trong sự trả lời với thế giới quanh họ. Beck noi: “Tôi nghĩ nền văn hóa của chúng ta ngày nay đang đặt giác quan của con người vào vùng nước xoáy, và nó đang xoay sở giữa việc tránh ra hay là bơi vào trong đó”
Người phụ trách Paul Schimmel cũng cảm thấy những nghệ sĩ đương đại đang sử dụng phong cách những năm 1960 như là một “ván nhún” hơn là những ký ức. Thực chất, ông định ra những khu vực tái hiện của tính phiêu diêu như một sự thúc đẩy phía sau cuộc triển lãm “Trạng thái xuất thần bên trong và về những tình trạng bị thay đổi” tại Bảo tàng Mỹ thuật đương đại ở Los Angeles. Với buổi triển lãm, Schimmel đã chọn 29 nghệ sĩ và những bộ sưu tập với những tác phẩm có ý tưởng của sự nhận thức mới. Trong khi Franz Ackermann và bộ sưu tập thể hiện không gian sinh động tập trung vào cách sử dụng màu và sắp xếp, những nghệ sĩ khác lại nghiên cứu về sự choáng ngợp của cảm giác và những thí nghiệm về ánh sáng. Olafur Eliasson tạo ra một vòi phun mưa lộng lẫy trong căn phòng tối được chiếu sáng gián đoạn; Ann Veronica Janssens thôi miên người xem với những vòng đèn lớn màu xanh chớp tắt; và Redl tạo ra chòm sao gồm những bóng đèn xanh lượn trong bóng tối quanh những đường kẻ ô 3 chiều vô tận. Cũng như những cây nấm trong buổi triển lãm, thật thần kỳ với những nhãn cầu liếc mắt đưa tình như trong những bức tranh và điêu khắc hoạt hình ở Takashi Murakami, đang mọc lên từ sàn nhà trong tác phẩm “Cánh đồng Psilocybe Cubensis” (1977) của Roxy Paine, hay những cây nấm khổng lồ đung đưa từ trên trần nhà trong “Căn phòng nấm đảo ngược” (2000) của Holler.
Đạo diễn Christoph Grunenberg đã triển lãm “Mùa hè của tình yêu: Nghệ thuật của thời đại phiêu diêu”, đặt tại Liverpool và Schirn Kunsthalle Frankfurt. Ông đã gộp tất cả những poster, sắp đặt, những trình diễn ánh sáng, phim, thời trang, những vật thiết kế, và tranh của những nghệ sĩ như Robert Indiana, Yayoi Kusama, Verner Panton, và Andy Warhol, cũng như của Isaac Abrams và Mati Klarwein. Trong catalogue, ông giải thích về sở thích của mình đối với những chủ đề đang phục hưng của phong cách này.
Sự trộn lẫn giữa nghệ thuật vama túy từ lâu đã thể hiện trong những tác phẩm của Tomaselli, trong đó có tác phẩm “Trạng thái xuất thần”. Những viên thuốc có màu như kẹo và những lá cây gai dầu là những thành phần thiết kế trong tác phẩm cắt dán độc đáo trên những tấm ván đen phủ nhiều lớp nhựa cây trong suốt. Cái ý tưởng tiền hiện đại của hội họa như một cánh cửa mở ra một thế giới khác đó là những trải nghiệm của tác giả với ma túy.

Meredith Mendelsoln
NHỮNG NGHỆ SĨ LÃNG MẠN MỚI

Trong “Đại dương mênh mông” (2001) của Ena Swansea, một bé trai đang đứng bên một bờ biển giận dữ. Bức tranh gợi nhớ lại tác phẩm của những họa sĩ Lãng mạn thế kỷ 19 như Caspar David Friedrich và J.M.W. Turner. Nhưng với ánh sáng chói, màu điện tử và vẻ dữ dằn của biển, tác phẩm của Swansea mang một vẻ lãng mạn đương đại – cùng sự giận dữ của những phong cách 2 thế kỷ trước.


Cảnh biển báo trước điềm gở của J.M.W Turne có một diện mạo mới trong "Dự cảm", 2004, của Dan Ford
Là một trong những chủ nghĩa khó nắm bắt của lịch sử nghệ thuật, phong cách Lãng mạn hiện thân của nó có nhiều hình thức. Như một trào lưu, nó nổi lên vào cuối thế kỷ 18 như một phản ứng với chủ nghĩa duy lý hình thành ở thời đại Ánh sáng. Bị vỡ mộng bởi Cách mạng Pháp và những hậu quả hỗn loạn của nó, cũng như cách mạng công nghệ và những căn bệnh tinh thần của nó, những nghệ sĩ Lãng mạn nhấn mạnh đến tính xúc cảm và chủ quan trên tính duy lý và khoa học. Chủ đề của họ thường là những đề tài huyền thoại, lịch sử, linh hồn, hay những ý nghĩa, tính nguyên thủy trong thiên nhiên, để chuyển tải những trạng thái tâm lý và những trải nghiệm vượt qua những cái tầm thường.
Hơn 200 năm sau, nhiều nghệ sĩ đã quay về với những chủ đề và phong cách của trường phái Lãng mạn. Anoelm Kiefer với niềm đam mê lịch sử và huyền thoại Đức, Bill Viola với những chân dung video đầy cảm xúc. Nhưng ngày nay, có những nghệ sĩ quan tâm tới những điều cơ bản đặc thù của trào lưu này, trong phong cách lẫn chủ đề, từ những nhát cọ điên cuồng và màu sắc rực rỡ đến những chiếc tàu chìm và hình ảnh cô độc của con người trong khung cảnh thiên nhiên.
Người phụ trách Martina Weinhart của nhà Schirn Kunsthalle ở Frankfurt nói: “Cả một thế hệ nghệ sĩ trẻ có vẻ như đang làm sống lại linh hồn Lãng mạn”. Ông tổ chức “Những thế giới lý tưởng: trường phái Lãng mạn mới trong nghệ thuật đương đại” tại Schim mùa hè vừa rồi với Max Hollein. Triển lãm bao gồm những tác phẩm của 13 nghệ sĩ, từ những bức ảnh mang không khí sầu muộn của những người đàn bà trẻ trên bãi biển mờ sương của Justine Kurland cho đến những tượng rùng rợn với đồ trang sức đầu sói của David Altmejd. Weinhart nói những nghệ sĩ này đi theo những “thiên đường, cái đẹp, và chuyện thần tiên”. Kể cả những khu rừng trăng sáng trong sách truyện của Laura Owen, những bức màu nước của Hernan Bas về những người đàn ông trầm ngâm trong những phong cảnh mơ màng và những bức tranh cắt dán giấy về những tòa nhà uy nghi trong những phong cảnh tuyệt vời của David Thorpe.
Đối với những nghệ sĩ Lãng mạn thời quá khứ cũng như hiện tại, sự hiện diện của thiên nhiên là không thể biết và không thể kiểm soát, phong cảnh là một nơi tồn tại những nhận thức của huyền thoại. Vì lý do nào đó, những huyền thoạ này nhường chỗ cho sự suy đoán không tưởng; mặt khác, chúng là nguyên nhân của sự khủng hoảng cuộc sống. Trong khi những họa sĩ Lãng mạn thế kỷ 19 thấy phong cảnh là nơi biểu lộ cái chất hùng vĩ đầy tín ngưỡng, thì những nghệ sĩ ngày nay lại ít thiên về tâm linh hơn. Họ tìm cách mô tả sự cô lập của con người – trong một thế giới xa lạ đầy tính xã hội và kỹ thuật.

WHITNEY BEDFORD. Không đề. 2005
Peter Doig, cũng trong nhóm “Những thế giới lý tưởng”, thường đưa hình ảnh đơn độc trong phong cảnh của ông với những hình thức thưa thớt, mềm mại, các mảng màu trong những hình bóng vẽ bằng pastel. Ông là một trong vài họa sĩ nằm trong bộ sưu tập của Charle Saatchi về những nghệ sĩ Anh trẻ đầu những năm 1990. Trong khi những đồng nghiệp của mình tập trung vào nghệ thuật ý niệm, Doig đã tạo ra những tác phẩm lấy cảm hứng từ Friedric. “Tôi đã vẽ theo sở trường của ông ta về phạm vi và sự dằn vặt đối với hiện thực. Những bức tranh mang phong cách hiện thực, nhưng là một thế giới được sáng tạo”. Tác phẩm của Doig sẽ được triển lãm ở gallery Michael Werner và Gavin Brown’s Enterprise ở New York cuối năm nay (với giá từ 40.000 $ đến 250.000 $). Ông tạo hình ảnh bằng cách kết hợp những thành phần từ nhiều bức ảnh, tranh của ông đầy vẻ hồi tưởng và mơ mộng, nhưng cái hình dáng trung tâm thường có vẻ không hợp với phong cảnh chung quanh, mang lại một cảm giác không thoải mái. Doig nói, một trong những mục đích của ông là “với tới cái không thật”.
Martin Oppel vẽ thành phố đang lan tràn và những khung cảnh sa mạc để nối những phong cảnh trường phái Lãng mạn với những vấn đề của thế giới hiện đại, thể hiện một cảm giác thất vọng. Trong “Những ngọn đồi Miami” (2004) tại Galerie Emmanuel Perratin ở Miami năm ngoái, một bầu trời màu hồng và xanh cuộn xoáy phía trên những đống gạch đổ nát lờ mờ, với những ống khói ở phía xa. Vẻ uy nghiêm của thiên nhiên đang cạnh tranh với những sáng tạo của con người.
Ernesto Caivano đã mang những kiểu Lãng mạn truyền thống về thiên nhiên và huyền thoại kết hợp với những tàu vũ trụ và những sinh vật tương lai trong câu chuyện khoa học giả tưởng về những tình nhân bị đày đọa. Loạt tranh 300 bức vẽ bằng mực “Sau những cánh rừng” (2001 - 05) kể câu chuyện về một công chúa và chàng hiệp sĩ bị lạc mất nhau một nơi mà Caivano gọi là “vũ trụ mới”. Công chúa dùng những con chim để liên lạc với hiệp sĩ, nhưng chàng hiệp sĩ lại giết những con chim để lấy lông mà không phát hiện ra những thông tin chúng mang theo. Cuối câu chuyện, nàng công chúa biến thành tàu vũ trụ và chàng hiệp sĩ biến thành bộ đồ du hành. Đó là một thiên sử thi về sự thất bại trong sự giao tiếp.
Những nghệ sĩ khác sử dụng trực tiếp những hình ảnh bi kịch từ thế kỷ 19. Dan Ford vẽ những bức họa về biển với hiểm họa báo trước đầy cảm xúc, đặt thêm vào những đồ chứa dầu bị chìm hay những tàu chở dầu ngập chìm trong khói đen. Ford nói ông ta đang cố gắng kéo sự chú ý phi thương mại giữa vấn đề phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Ryan Taber trộn lẫn những yếu tố từ những bức tranh khoa học của những họa sĩ Lãng mạn Mỹ – như những họa sĩ trường Hudson River, Thomas Cole, Albert Bierstadt và Frederic Edwin Church – với những nội dung lịch sử nghệ thuật khác. Trong một công trình điêu khắc, phiên bản phóng lớn của tảng đá non bộ Nhật Bản có mô hình của một con tàu Norse và cảnh một tranh nhà thờ. Taber rất thích khám phá những vật có vẻ bên ngoài khác so với nội dung gốc của nó, nhưng ông cũng cố gắng chỉ ra sự liên lạc giữa những trào lưu lịch sử.
Đối với Whitney Bedford, đó là “những hình ảnh khải huyền” của những nghệ sĩ Lãng mạn ngày nay. Mang một trong những phong cách chính yếu của thế kỷ 19, cô vẽ những con tàu đang đáp vào trong những vũng sơn của lối vẽ đắp “Chất sơn tự nó đang cố nhấn chìm con tàu”. Với những màu sền sệt , những bức tranh này vừa lạc quan vừa đầy vẻ chết chóc, vừa rạng rỡ vừa u sầu. Đó là tính hai mặt mà những nghệ sĩ Lãng mạn mới luôn mang trong lòng như những bậc tiền bối của mình.

PHẠM VĂN ĐỨC
(dịch từ Art news 2-2006)
read more...