Hiển thị các bài đăng có nhãn THÔNG TIN MỸ THUẬT SỐ 11-12. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn THÔNG TIN MỸ THUẬT SỐ 11-12. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Đại học mỹ thuật Tp. HCM, tạp chí mỹ thuật: Top 10 Khuynh Hướng Nghệ Thuật Đương Đại (KỲ 1)

Đại học mỹ thuật Tp. HCM, tạp chí mỹ thuật: Top 10 Khuynh Hướng Nghệ Thuật Đương Đại (KỲ 1)

Trong tạp chí “Art news” số 2 phát hành tháng 2 năm 2006 có một loạt bài viết về các khuynh hướng mỹ thuật đương đại dưới một tiêu đề chung Top 10 trends, 10 bài viềt viết về những họa sĩ mà tác phẩm của họ phản ánh những khuynh hướng tiêu biểu được tạp chí trên tuyển chọn.
Do số trang có hạn, Thông tin Mỹ thuật không thể đăng lại trọn vẹn các bài viết trên; để giúp bạn đọc có một cái nhìn toàn bộ và cập nhật về mỹ thuật thế giới, chúng tôi tổng thuật trong bài viết sau và đăng tải thành 2 kỳ

Kỳ 2: XEM TẠI ĐÂY

SANFORD BIGGERS. Thảm cầu nguyện. 2005. Với sự chỉ dẫn của ông, mọi người im lặng trải cát màu lên sàn gallery

Mở đầu loạt bài này, Robin Cembla viết: “Làm sao bạn có thể nhận ra một khuynh hướng? Nếu bạn là Kay Larson, bạn thấy sự hư hỏng ở mọi nơi. Nếu bạn là Jori Finkel, bạn sẽ thấy chất thơ trong vẻ đẹp của những kho chứa vật dụng trong nhà. Và nếu bạn là Carly Benwick, bạn sẽ kết luận rằng một con chim cánh cụt mang linh hồn của giải thưởng hai năm Whitney sắp tới. Trong khi danh sách 10 khuynh hướng được biên tập và đóng góp, sắp xếp, dĩ nhiên mang tính chủ quan, nó được coi như là một bức tranh tổng hợp của thế giới nghệ thuật đương đại.”
Bài đầu tiên là của Kay Larson, với tựa đề
GIỮ VỮNG NIỀM TIN, tác giả viết: “Những tác phẩm nghệ thuật về những lễ nghi tôn giáo, sự thiền và nỗ lực hàn gắn thế giới phản ánh mối quan tâm ngày càng nhiều đối với vấn đề của linh hồn”. Những tác giả của khuynh hướng sáng tác này có một điểm chung nhất, đó không phải là hình thức sáng tác của tác phẩm mà là nội dung nó đề cập tới: đời sống tâm linh và linh hồn.
Khác với những tác phẩm về đề tài linh hồn vốn ồn ào và bị công kích ở nửa thế kỷ trước, những tác phẩm ngày nay về đề tài này diễn ra lặng lẽ hơn trong các loại hình nghệ thuật như: sắp đặt, video, nghệ thuật hậu những năm 1960 và hậu Nghệ thuật Tối thiểu. Với cái nhìn khơi gợi những hiện tượng tinh tế, sâu sắc trong đời sống trần tục thường ngày, các bóng mờ của hình dáng và sự khó nắm giữ thuộc tiềm thức, các nghệ sĩ này đã khai quật tâm trí, trái tim mình. Họ là Marina Abramovic, Lauri Anderson, James Turner và Bill Viola với các tác phẩm là những cuộc phiêu lưu vào thế giới bên trong. Viola đến với nghệ thuật Nhật Bản và thiền từ năm 1980, sau đó ông lại say mê Nghệ thuật Phục Hưng cùng với niềm đam mê Thiên Chúa. Tác phẩm bộ đôi “Lễ rửa tội” lại là sự cọ xát tinh thần mang tính vô thần, đã làm bốc cháy màn hình plasma với hình ảnh 2 tấm thân đàn ông và đàn bà trong bóng tối, bị chia cách bởi một cột nước chập chờn, lấp loáng, rất khó nắm bắt như thể áp lực của dòng chảy cuộc sống. Viola nói: “Lễ rửa tội có mối liên quan đến sự thanh tẩy, nhưng cũng được coi như sự rộng mở những cánh cửa thần kỳ trong mỗi chúng ta”... “Những điều không thể đặt tên hay không thể giải thích trong cuộc sống luôn hấp dẫn tôi.”... “Nghệ thuật của tôi không đưa ra những câu trả lời, mà là những câu hỏi”.




ARLENE SHECHET. Đức Phật phía Đông.1999

“Tôi tin rằng con người có năng lực sáng tạo vô tận đối với những hình ảnh mang tính thần thánh”, Ukeles, một nghệ si Do Thái với màn trình diễn về nghi lễ tắm rửa, hay “Bản tuyên ngôn cho nghệ thuật hiện nay” 1969, thể hiện một khởi đầu cho nỗ lực cứu rỗi thế giới trong việc tái che rác. Cô nói quan điểm của mình về linh hồn đối với tiềm năng của con người. Tương tự như vậy, nghệ si Kimsooja của Hàn Quốc và nghệ sĩ Lee của Đài Loan (từng ở thiền viện trong 6 mùa hè) đã có những tác phẩm tinh tế nhấn mạnh tới sự tiết chế, lòng trắc ẩn và sự cảm thông, một thế giới tuyệt vời phản ánh gốc rễ đạo Phật của họ.
Antoni, nghệ sĩ theo đạo Thiên Chúa, đã nghiên cứu đời sống tu viện, những chủ đề về sự hợp nhất, cũng như những quy tắc thiền Châu Á. Trong tác phẩm trình diễn, bằng cách liếm và ăn những bức tường bằng chocolate của mình, cô đã hòa hợp chúng vào cơ thể mình như một quan niệm theo nghi lễ hợp nhất, sự chuyển bánh mì thành cơ thể và rượu thành máu của Chúa.
Đối với Arlene Shechet, người tôn vinh đạo Do Thái gốc của mình ngang bằng với đạo Phật mà cô theo. Năm 1992, khi cô bắt đầu làm những tượng Phật ở Hydrocal, thì từ điển nghệ thuật thế giới đang bị ảnh hưởng lớn bởi những hình ảnh gợi dục và những ấn phẩm về giới tính, để chống lại chúng, theo cô cần một hình ảnh đầy ấn tượng, gây sửng sốt, đó chính là hình ảnh một đức Phật khiêm nhường. Cô đã thể hiện suy nghĩ của mình như vậy trong những triển lãm cá nhân tại Elizabeth Harris ở New York, Shoshana Wayne ở Los Angeles, Hemphill Fine Art ở Washington.D.C.
Con đường của Bigger lại dẫn tới những kết quả bất ngờ, huyền bí và đầy sức mạnh. Có ông Cha đã từng là trụ cột nhà thờ của cộng đồng Mỹ gốc Phi. Nhưng ông ta cũng chưa thức tỉnh - như ông nói - cho đến khi học xong cao đẳng và đi tới Nagoya, Nhật. Sau 2 năm nghiên cứu thiền và tiếng Nhật, ông đã làm những bức tranh vẽ nguệch ngoạc bằng những vòng tròn thể hiện vũ trụ. Nghệ thuật của ông thấm đẫm chất nhạc hip-hop, nhạc jazz và gần đây là văn hóa đạo Hồi. Cuộc trình diễn sắp đặt với những bức tranh cát Tibetan, nghi lễ cầu nguyện đạo Hồi với những bình đựng cát màu ở nhà Triple Candie - New York. “Hành động mọi người quỳ trải cát lên sàn nhà trong im lặng giống như là một nghi thức thiền”. Ong nói: “Bạn đi vào nơi đó khi cơ thể và tâm trí bạn làm việc độc lập và tác phẩm hình thành một cách vô thức. Đó là sự chú tâm, khi những nghệ sĩ cùng đạt tới cõi thiền một cách an nhiên. Tính chất linh hồn là từ mà chúng tôi cần, để nói về nhu cầu được đồng điệu với mỗi người chúng ta”.

SALÔNG VẬT PHẾ THẢI là bài viết tiếp theo của JORI FINKEL, nói về Nghệ thuật Sắp đặt mà theo tác giả đang lan tràn các gallery. “Sau Kurt Schwitters, những nghệ si đang mang những cơn bốc đồng và chất thơ của mình vào những sắp đặt ngổn ngang, đầy ám ảnh của họ”.
Năm ngoái, Sarah Sze đã biến gallery Marianne Boesky ở New York thành một bãi hỗn độn gồm thước dây, dây điện, ly giữ nhiệt, lông chim… Gần đó, tại nhà Texter và Spengemann, Charlotte Becket đã xây một ngọn núi bằng cách nén đĩa CD, thùng giấy, chai rượu, lon bia, “bất cứ vật gì còn sót lại cuối ngày trong studio của tôi”. Và Phoebe Washburn đã bỏ ra cả mùa hè năm ngoái ở Los Angeles để dựng lên 2 sắp đặt khổng lồ với hàng tấn ván ép, kết hợp với bút chì và keo dán mang tên “Không có bí mật nào gây ngạc nhiên”, trông giống như một khu ngoại ô lụp xụp bị quật nát bằng một cơn bão. Sắp đặt khác của cô “Nó được tạo ra khi tôi là nhà tỷ phú” ở gallery Karton/Feuer, cỏ và cây mọc trong nhà được cô đặt vào những cái thùng để tạo ra một địa hình thành thị mơ hồ. Băng qua Đại Tây Dương, tại nhà Kunsthallen Brandts ở Odense, Đan Mạch, bậc thầy xây dựng Jessika Stockholder đã hoàn tất tác phẩm gồm những căn nhà màu xanh lá (nhưng không có cây), những cái chảo lá nhôm và ánh sáng bức xạ.


PHOEBE WASHBURN. Nó tạo ra cho tình trạng tỷ phú của tôi . Cây cối mọc rễ giữa những mảnh ván

Không hề có ý định tạo ra một trào lưu, những nghệ sĩ này đang tạo ra một loại hình Nghệ thuật Sắp đặt ngổn ngang, gom góp nhiều đối tượng, đầy ám ảnh. Loại hình này rất khó trong việc xây dựng và cũng là một thử thách trong việc góp nhặt. Rõ ràng nghệ thuật này cần đến kích thước và tỷ lệ của kiến trúc, như tác phẩm “Merzbau” của Kurt Schwitters. Từ “merzbau” phát xuất từ tiếng Đức, do Hannover, người theo trường phái Dada tạo ra để chỉ thương mại và xây dựng. Nhưng Schwitter lại sử dụng nó để chỉ từ “gesamtkunstwerk”, có nghĩa là “tác phẩm nghệ thuật hoàn toàn”. Tác phẩm được ông xây dựng trong nhà mình từ đầu những năm 1920 và không ngừng đắp đổi cho đến khi ông rời nước vào năm 1937. Nó mọc từ bức tường này sang bức tường khác, từ sàn nhà đến trần nhà, hình thành lên cái mà ông gọi là hang động, cho đến khi nó chọc thủng mái nhà. Tác phẩm là sự tập hợp những bức tranh, bộ sưu tập, những cái ly chứa chất lỏng trong cơ thể và vô số những vật khác. Khi Hannah Hosch làm mất chìa khóa cũng là sự đóng góp thêm chiếc chìa khóa vào tác phẩm Merzbau.


PIERRE HUYGHE. Chuyến đi không thành, 2005. Tại Wollman Rink trong công viên Trung tâm

“Merzbau” của Schwitter đã bị bom phá hủy trong thế chiến thứ 2, nhưng linh hồn của nó vẫn sống tới ngày nay trong những sắp đặt khó hiểu được tạo ra bằng những vật dụng hàng ngày. Lynne Cooke, nhà tổ chức triển lãm sắp đặt cho Stockholder năm 1995 tại Dia Center for the Arts – New York, nói: “Những nghệ sĩ như Jessica và Sarah không tạo ra những bài tường thuật quan trọng hay những bài bình luận sâu sắc về môi trường chúng ta đang sống, mà họ chia sẻ một cơn bốc đồng đầy chất thơ và trữ tình”. Những cơn bốc đồng này cũng làm cho họ khác với những nghệ sĩ sắp đặt Châu Âu như Thomas Hinschhorn, Jonathan Meese và Graham Hudson, những người có sức công kích mạnh hơn. Những tác phẩm của các nghệ si Châu Âu mang tính chính trị sâu sắc và tồn tại lâu hơn.
Đối với thế hệ ngày nay, mọi đồ vật để làm sắp đặt ta có thể thấy bất cứ ở đâu, từ kho xưởng cho đến vật dụng trong căn hộ. Vậy, những nghệ sĩ này có nghĩ những sắp đặt của họ mang tính tái sinh? Wasburn đồng ý với quan điểm này, vì cô thích tái sử dụng những miếng ván ép từ công trình này sang công trình khác.
Hầu hết những thứ trong sắp đặt của Stockholder có thể tìm thấy ở kho đồ dùng trong nhà, như máy giặt, bóng đèn, dây nối. Thực chất, Stockholder, Sze, Washburn và Becket đều được mô tả như có một khiếu thẩm mỹ về kho chứa đồ dùng trong nhà. Mặc dù những tác phẩm của họ có hình thức khác nhau, nhưng cũng thấy được khuynh hướng trong việc tập hợp những nguồn vật liệu hay công cụ xây dựng. Và hầu hết họ đều có những trải nghiệm trong việc sử dụng gỗ hay xây dựng cơ bản, đủ để xây dựng lên một cấu trúc chắc chắn, chỉnh tề. Ở đây xuất hiện câu hỏi: Phải chăng những tác phẩm nữ tính của họ mang một hành động giễu cợt đối với cái thú sửa chữa đồ dùng trong nhà của đàn ông.


PATRICIA PICCININI.Không tách rời. 2004. Những con quái vật làm bằng sillicone và lông như giễu cợt sự tiến hóa

NHỮNG CON CHIM CÁNH CỤT, NHỮNG LỜI NÓI DỐI VÀ BĂNG VIDEO. Những cuốn băng video phim tài liệu mang tính giễu cợt đã xóa mờ ranh giới sự thật và giả tưởng là tiêu đề và lời dẫn bài viết của CARLY BERWICK, bài thứ 3 trong loạt bài này.
Vào một đêm mưa sũng nước ở New York mùa thu năm ngoái, hàng trăm người đã tụ tập xem “Chuyến đi không thành” của nghệ sĩ người Pháp Pierre Huyghe, tái tạo lại chuyến đi của ông tới Nam Cực để tìm loài cánh cụt trắng. Họ tập trung ở công viên trung tâm Wollman Rink, nơi đã được biến đổi thành một quang cảnh thời tiền sử đẫm hơi nước với đá và mặt nước đen. Khán giả được hướng dẫn hành động một cách tự nhiên, hạ dù xuống khi màn trình diễn bắt đầu. Sương mù cuộn xoáy trên mặt nước như một dàn nhạc chơi trên một sân khấu nổi. Sau nhiều phút, một con chim cánh cụt đột ngột xuất hiện thấp thoáng trên những tảng đá trong màn sương.
Mặc dù hình ảnh con chim cánh cụt có thể được thấy rõ ràng hay không thì sự kiện này cũng như một cuộc phiêu lưu đích thực cho những người thưởng thức nghệ thuật. Huyghe là một trong những nhà lãnh đạo những nghệ sĩ sử dụng phim ảnh và những phóng sự trong phim theo lối truyền thống, biểu diễn “ngay ranh giới mập mờ giữa sự thật và giả tưởng”. Chrissie Iles, phụ trách Bảo tàng Nghệ thuật Mỹ ở New York nhận định rằng những tác phẩm của họ có nhiều liên quan đến những thành công trong lịch sử điện ảnh của thế kỷ, hơn là nghệ thuật video trên nền trình diễn những năm 1970.
Lần đầu tiên, giải thưởng Whitney Biennial lại có tựa đề “Ngày dành cho đêm”, giống tựa đề phim của Francois Truffaut năm 1973 (do chính tác giả đóng vai chính) về một đạo diễn phim giả tưởng. Chương trình này bao gồm việc khám phá hay biểu diễn với những quy luật truyền thống của cách làm phim, cách kể chuyện – như lối tường thuật trôi chảy và nghệ thuật phối cảnh gây ảo giác.
“Ngày nay, người ta biết rằng mọi thứ đều có thể điều khiển bằng tay. Hơn bao giờ hết, ý thức về cái thật và cái không thật cùng tồn tại trong nền văn hóa”. Cùng lúc với thành công của các nhà làm phim tài liệu, những nghệ sĩ như Huyghe cho tới Douglas Gordon, Walid Raad Dang sử dụng phim và video để thăm dò khoảng trống giữa hiện thực và sáng tạo. Sự xóa mờ ranh giới giữa sự thật và giả tưởng, cho phép nghệ sĩ bình luận với thế giới những sự kiện theo cách ít tranh cãi hơn.
Năm 1999, Raad, nghệ sĩ người Lebanon, sống ở New York, thành lập dự án “Nhóm Atlas”, đưa ra những tác phẩm làm méo mó lịch sử và những câu chuyện đã bị chôn vùi ra ánh sáng. Trong sắp đặt “Con tin, những cuộn băng của Bachar” (2001), con tin người Lebanon tên là Souheil Bachar được đặt vào trong một câu chuyện phóng sự về 5 người Mỹ bị bắt ở Beirut giữa những năm 1980. Tên và hình ảnh của Bachar xuất hiện cùng lúc với những người Mỹ trong bản tin tức gốc đã bị sửa đổi. Raad nói: “Những câu chuyện đưa ra lời phán quyết cho những trải nghiệm này có thể là những điều hoàn toàn tưởng tượng, nhưng khả năng tưởng tượng lại đòi hỏi phải dựa trên sự thật”.
Những trải nghiệm gây ít tổn thương hơn, như là một chuyến đi, có thể thực hơn khi tưởng tượng lại những dẫn chứng tư liệu giả tưởng. Bản video của Patty Chang “Shangri-La” (2005) sẽ được trình chiếu ở Bảo tàng nghệ thuật đương đại tại Chicago mùa hè năm nay. Mở đầu như một cuốn video nghỉ hè của một khách du lịch, nhưng sau đó dần dần trở nên đặc biệt: Người nghệ si đi vào một thị trấn Trung Quốc ở Zhongdian, gần Tibe, mà sau đó đã được đổi tên thành Shangri-La sau khi tiểu thuyết “Chân trời bị mất” (1933) của James Hilton nói về thiên đường Himalaya giả tưởng xuất bản. Cảnh núi của thị trấn rất kỳ lạ, và hình ảnh lập đi lập lại của dãy núi lồng ghép với sự xuất hiện của Chang như là sự pha trộn giữa thực tại và tưởng tượng. Trong cuốn video này, Chang đã nhờ những công nhân địa phương dựng lên những dãy núi và một mô hình đỉnh núi bằng ván ép bóng để có thể phản chiếu phong cảnh chung quanh. Cô đã đặt làm một cái bánh trang trí với những trái núi và quay phim những nhà sư đang khám phá những cục đá giả trồi lên ở trung tâm một khách sạn của Trung Quốc. Chang nói: “Bản video tự nó có thể là một tài liệu và ý tưởng của việc du hành để thực sự thấy điều gì đó. Tuy nhiên tính chất không thật của nó vẫn dần dần lộ ra”.
Ormer Fast cũng thích thú tham gia những chuyến du hành để khám phá sự xung đột giữa những câu chuyện hư cấu và sự thật. Bản video “Thành phố của Chúa” (2004) được dựa trên những cuộc phỏng vấn những nam diễn viên tiếng tăm ở Colomal Williamsburg, Virgin, sau đó ông cắt và nối lại tạo thành những câu chuyện mới. “Tôi rất thích những chỗ mà sự thật được để lại và đồng hóa vào nghệ thuật trình diễn”. Trong phần âm thanh của một đoạn, nó không còn rõ nữa để nhận ra người được phỏng vấn, người đang nói chuyện về quá trình làm dân quân, là một nhà cách mạng thế kỷ 18 hay thế kỷ 21. “Thành phố của Chúa” gần đây được chiếu ở gallery Posmasters – New York.
Cho bản video “Danh sách của Spielberg” (2003), Fast đã tới Krakow, Ba Lan, và những địa phương đã được sử dụng trong phim “Danh sách Schindler” (1993) của Steven Speilberg, những nơi trở thành đích đến cho khách du lịch Mỹ. Fast đã phỏng vấn những người dân địa phương đã tham gia trong bộ phim, nhưng bản video không đủ rõ để nhận diện họ là những diễn viên hay những người sống sót từ nạn diệt chủng. Fast nói: “Điều đó đã khuyến khích sự cảm nhận mới và sự thực mới. Khi mà mọi người tới để xem những cái còn lại của lịch sử cũng là để xem những cái mà bộ phim để lại. Những cuộc đời thật đã được thay thế bằng những điều giả tưởng”.

Bài tiếp theo của KAY LARSON với tựa đề
NHỮNG BIẾN THỂ ĐẸP, nói về một khuynh hướng mà theo tác giả là: “Vừa dễ chịu, vừa buồn, vừa tình cảm lại gây ác cảm, vừa dễ thương lại vừa đáng ghét, đó là trường phái kiểu cách hậu hiện đại”.
Nhà sử học nghệ thuật Walter Fredlander, đầu thế kỷ 20, đã định nghĩa trường phái Kiểu Cách như là một phần mở rộng của phong cách Phục Hưng cao hơn – và là một sự tiến triển khỏi sự cân bằng và vẻ duyên dáng của nó. Tính đa cảm, sự méo mó, sự biến mất của tính cân xứng, sự phóng đại quá đáng hay không tự nhiên, và sự bồn chồn, lo lắng – là những dấu hiệu của chủ nghĩa chống cổ điển xuất hiện ở thế kỷ XVI.
Sự bất tuân với lý tưởng cổ điển đối với những thứ “được kiểu cách hóa“ ngày nay có vẻ thân thuộc với công chúng thưởng thức nghệ thuật. Sự cân bằng về mặt hình thức của chủ nghĩa hiện đại những năm 1950 và chủ nghĩa chống tính đa cảm của nghệ thuật Pop giai đoạn đầu đã tiến triển thành nghệ thuật đỉnh cao, mà ta có thể gọi là chủ nghĩa Kiểu Cách hậu hiện đại. Marthew Barney đã đeo tai dê, những thứ nhái lại và những dòng chữ điệp khúc trong phim và trình diễn của ông. Damien Hirst thì mang cả lò sát sinh vào gallery, và Patricia Piecinini mang những chi tiết tương tự từ phim E.T, Chiến tranh giữa các vì sao, Chúa tể những chiếc nhẫn, và những thứ đẹp đẽ của hãng Pixar để cho ta thấy những sinh vật có dòng họ với quái vật.


SHINIQUE SMITH. Không đề. 2005. Kết hợp thư pháp với các mảnh vải vụn trong máy giặt tự động

Chính xác thì sự rối loạn cảm xúc kết hợp với Chủ nghĩa Kiểu Cách đã mang phong thái của nghệ thuật Baroque, hay trường phái Kiểu Cách đương đại chuyển dần thành trường phái Baroque đương đại. Đối với Paul Schimmel, người phụ trách bảo tàng nghệ thuật đương đại Los Angeles thì nghệ thuật của Barney có những quan điểm tương tự như Mike Kelly và Paul McCathy, trong sự kết hợp đa thành phần của nghệ thuật trình diễn, video, nhiếp ảnh và sắp đặt.
Màn trình diễn gần đây của McCathy tại gallery Whitechapel ở London gồm có một tàu hộ tống, một nhà trên sông và một cuốn phim bị dập nát, tất cả dựa trên hành trình “Những tên cướp biển Caribbean“ tại Disneyland. Mùa hè này, ông sẽ có một cuộc triển lãm về quá trình làm việc của mình tại Moderna Museet ở Stockholm.
Theo như Schimmel thì “Cả 3 nghệ sĩ này đều sử dụng những yếu tố trong tranh biếm họa và sự phóng đại“. Phức hợp sắp đặt, trình diễn của họ có một vẻ hoành tráng mà họ kết hợp được từ nhạc kịch. Cùng một lúc, họ sử dụng một bản nhạc giao hưởng, một đội hợp xướng và những ca sĩ riêng biệt; một bài tường thuật; đó luôn luôn là cái phức tạp và thử thách nhất của nghệ thuật.
Nhưng lịch sử nghệ thuật Kiểu Cách và nghệ thuật Baroque không giống nhau, cả những chủ đề tương tự cùng thời cũng khác nhau. Trong lịch sử nghệ thuật Baroque, những ám ảnh trần tục với ruột rà, sự tử vì đạo, những hình dáng đa cảm (như cách phối hợp sáng tối của Caravaggio) đã chuyển tải cái nhựa sống đầy bi kịch nhưng cũng đồng thời mang tính lạc quan. Những bộ phận cơ thể và ý nghĩa xúc cảm của chúng, hiện đang là chủ đề yêu thích cho nhiều nghệ sĩ – Louise Bourgeois đã khai thác lĩnh vực này được nhiều năm. Trong những bức tranh mới nhất của Sue William tại gallery 303 ở New York, những hình dáng với những đường nét lưu loát, tao nhã đang ranh mãnh rùng mình để chuyển thành những thành phần cơ thể, như đang đánh thức những cơn rung động cảm xúc đầy quyến rũ nơi người xem.
Đặc điểm của trường phái Kiểu cách trái ngược lại, có tính chất nhân tạo, màu sắc kỳ dị, sự nén không gian bất hợp lý, và một mối bất an vượt qua khỏi cái vẻ tự nhiên hời hợt. Trường phái Kiểu Cách nhấn mạnh đến sự khéo léo của cách diễn tả cảm xúc. Nhà phụ trách Norman Kleeblatt của bảo tàng Jewish tại New York: “Tôi thấy tính chất tiêu khiển khi xem những tác phẩm của trường phái Kiểu cách, tôi nghĩ đó là sự gắn kết với nghệ thuật đương đại“. Ông ta định nghĩa trường phái Kiểu Cách như là “một phương thức, kỹ xảo về nhận thức hay hình thức”.
Vào cuối những năm 1980, Mike Kelly đã viết về những diện mạo khác của trường phái Kiểu Cách: “Run rẩy, châm biếm, khoa trương, hay mối quan hệ của sự chuyển tải mối bất an với nền văn hóa phổ biến”. Trường phái Kiểu Cách hậu Pop có thể thấy rõ trong tính chất nhân tạo và bất an của những câu chuyện kỳ dị về loài thú của Piccinini, gây sự chú ý quốc tế tại giải thưởng Venice Biennale 2003. Peccinini không những lôi cuốn chiến lược chiếm hữu văn hóa mà còn về cái nhìn và cảm giác của những thiên anh hùng ca của nền điện ảnh hiện thời. Tính chất tự nhiên hời hợt của những sinh vật bằng silicone của cô – da nhăn, loang đốm, móng chân dài – buộc người xem phải nhận diện lại. Đáng khinh, đáng ghét, sần sùi, những sinh vật này mang những cảm xúc cố ý: vừa ghê tởm vừa dễ thương, vừa dễ chịu vừa buồn. Những biến dị của Darwin như là trò đùa cho sự phát triển và cho nỗi sợ hãi của chúng ta đối với hiểm họa của trật tự tự nhiên.
Dù gì thì tính chất nhân tạo đã được cố ý tạo ra để phù hợp với nỗi bất an không tên nói chung. Đối với Kiki Smith sự tự nhận thức là điều quan trọng cho trường phái Kiểu Cách. “Nó có những khía cạnh tình cảm và hồi ức. Tôi luôn nhìn lại những thứ trong quá khứ, làm đẹp thêm và tái định hình cho chúng… nó luôn là những thứ quen thuộc cần được nhìn lại, vì thế nó có sức sống”.
Yinka shonibare thì đang xem xét tính chất thực dân qua những chất vải vóc, đồ vật Châu Phi, hay điêu khắc gia người Canada David Altmeid đang tạo ra vẻ đẹp từ ma chó sói, tất cả đều từ hình thức văn hóa xa xưa. Cái chân dung bằng sứ của Kim Simonsson thể hiện một mối lo lắng đang dày vò dưới cái bề mặt dễ thương của truyện tranh và hoạt hình Nhật.

NGHỆ THUẬT ĐƯỜNG PHỐ. “Hình, chữ vẽ trên tường, nhạc hip-hop, ván trượt với vẻ gan góc, quyến rũ của chúng đang tiến vào các gallery”. Đó là nhận định của REBECCA SPENCE trong bài thứ 5 này.
“Tôi muốn có một cái nhìn về văn hóa Pop”, nghệ sĩ 34 tuổi Mickalene Thomas đã diễn giải như vậy khi cô gắn những viên đá Swarovski và đá thạch anh vào những bức tranh khổ lớn của mình về những phụ nữ da đen.
Thomas là một trong những nghệ sĩ tìm cảm hứng trong cái gai góc và hấp dẫn của văn hóa thành thị. Nikkis Lee tự chụp hình mình như một siêu sao nhạc hip-hop. Ryan McGinners tạo ra những bức tranh nhiều lớp với những hình ảnh nhỏ xíu của những tay trượt ván, và những hình vẽ trên tường và ván ép chung quanh thành phố New York. Và thế là bảo tàng và các gallery bắt đầu chú ý tới hiện tượng này. Có những buổi biểu diễn liên tục như “Những kẻ thất bại xinh đẹp: Nghệ thuật đương đại và văn hóa đường phố“ khai mạc tại Trung tâm Nghệ thuật đương đại Cincinnati tháng 3-2004; với những tác phẩm của McGinnes, Brian Donelly, Shepard Fairy, Barry McGee và Tobin Yelland. Hoặc “Tiếng bản xứ mới: Pop, tranh chân dung, tạp chí giật gân và khiêu dâm“ tại gallery Steve Turner ở Beverly Hills, và “Nghệ thuật đường phố, cuộc sống đường phố” đã được lên kế hoạch khai mạc tại Bảo tàng Nghệ thuật Bronx đầu năm 2008.
Nghệ thuật graffiti (vẽ trên tường), nhạc hip-hop, trượt ván – đã từng bị loại ra khỏi lề xã hội – nay đang tiến vào dòng chảy chính, và nghệ thuật đương đại thì đang phản chiếu sự thay đổi đó. Lydia Yee, người phụ trách Bảo tàng Bronx và là nhà tổ chức “Nghệ thuật đường phố, cuộc sống đường phố“, giải thích: ”Internet và các phương tiện truyền thông đã đưa những nền văn hóa địa phương ít được biết đến tới gần với lượng khán giả đông đảo hơn”.


KEHINDE WILEY mang phong cách hip - hop vào một tranh mẫu của ingres "Napoleon đang tiến quân vượt qua dãy Alps", 2005

Ta có thể so sánh với trường hợp của những nghệ si như Jean - Michel Basquait và Keit Haring đầu những năm 1980, từ những nghệ sĩ vẽ trên tường trở thành những siêu sao của thế giới nghệ thuật. Nhưng đối với Yee thì Nghệ thuật Trình diễn của Vito Acconi và Valie Export cuối những năm 1960 cũng đã định hình trước khuynh hướng này. “Lúc đó họ đã muốn tìm một con đường liên kết với khán giả trực tiếp hơn và bỏ qua những cấu trúc nghệ thuật hàn lâm. Tôi nghĩ những nghệ sĩ trẻ hơn cũng lấy những đề tài đường phố với lý do này”. Nghệ sĩ New York Shinique Smith, truy tìm những nghiên cứu nghệ thuật của mình với gốc rễ thành thị ở Baltimore, nơi cô viết, vẽ trên tường với nhóm bạn của mình. Tại trường Cao đẳng Nghệ thuật Maryland, cô đã bắt đầu kết hợp những nghiên cứu thời trẻ với nghệ thuật viết chữ Nhật Bản để tạo ra hình thức viết “giống như một loại hình viết chữ trên tường rất tự do, với nhiều lớp chồng lên nhau, và rất khó đọc ngay cả đối với những nghệ si graffiti chuyên viết vẽ trên tường“. Cô đã vẽ trực tiếp lên những bức tường của bảo tàng và gallery và tạo ra những bức tranh bằng giấy 3 chiều.
Với diện mạo tác phẩm có tính nghi thức và tâm linh, nghệ thuật của cô là những kết hợp mang tính lập đi lập lại, như sự khẳng định nhịp điệu làm nền cho âm nhạc hip-hop. Trong bức tranh màu đen và bạc “Tôi là tôi, tôi đi đến nơi tôi phải đi“ (2002), Smith đã kết hợp lời bài hát của ban nhạc Beastie Boys với những đoạn văn trong kinh thánh – mặc dù câu duy nhất hiểu được, có sự tương đồng với tiếng Ả Rập cổ có nghĩa là “tôi là”. “Điều quan trọng là hình thức của những từ này tạo thành một phức hợp, và sức mạnh bùng nổ từ đó“. Sắp đặt “Bale Variant # 006” (2005) của Smith lấy cảm hứng từ cách sử dụng và hủy bỏ vật chất của những đường phố chật hẹp, chen chúc với máy móc. Người phụ trách Sirman coi việc sử dụng những vật liệu của Smith và Thomas trong “Neo Vernacular“ như “thức ăn tâm hồn”. “Đó là khả năng tạo ra một thứ gì đó từ không có gì, hay bất cứ thứ gì có trong tay”.
Không giống như Smith mang đường phố vào trong nghệ thuật, nghệ sĩ Nam Phi Robin Rhode lại mang nghệ thuật ra đường phố. Ông vẽ phác bằng than những vật hàng ngày như ván trượt, ca đựng nước, xe đạp rồi diễn với chúng, chẳng hạn như trượt ván trong loạt tranh “Board” (2003). Tương tự, David Hammons sử dụng sân bóng rổ ở Brooklyn và Harlem cho loạt sắp đặt “Những bàn thắng cao hơn” giữa những năm 1980. Rhode sử dụng không gian đô thị ngoài trời như bãi đậu xe, sân chơi để làm sân khấu cho trình diễn của mình. Trong “Người vũ nữ thoát y“ (2004), một phim hoạt hình kết hợp với những bức ảnh dài 2 phút, Rhode mặc quần đen bóng như nhựa, mũ đen, giầy Nike trắng, ông cạo hình mới vẽ bằng than trên tường trắng (như ngụ ý đang lột trần). Tương tự, ông làm với hình cửa sổ, cửa chính, cho đến khi chỉ còn lại một khối màu trắng và cũng là tấm toan vẽ của ông.
McGee đã từng viết chữ lên tường trong suốt những năm niên thiếu ở San Francisco, đến nay vẫn bám theo những cột đèn, lề đường với những chủ đề đa dạng. Sắp đặt “Không đề” (2004) của McGee là một bức tường thể hiện một bàn cờ với những hình chữ nhật nhiều màu. Đứng trước bức tường là một mannequin có lắp động cơ, mang hình ảnh người bạn - cộng sự của ông - Josh Lazcano đang vẽ bằng sơn xịt.


PHẠM VĂN ĐỨC dịch
read more...

Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2012

Nhà cổ Nam Bộ: Nhà Rường Huỳnh Phủ - Bến Tre


Nhà cổ Nam Bộ, pham van hoa, van hoa vn, thong tin van hoa, van hoa thong tin, khai niem van hoa, truong dai hoc van hoa, dai hoc van hoa ha noi, 
phat trien van hoa, xem kinh van hoa: Nhà Rường Huỳnh Phủ - Bến Tre
Chủ nhân xưa và lịch sử xây dựng ngôi nhà



Làng Đại Điền xưa nổi tiếng là vùng đất trù phú có nhiều người giàu có, trong số đó có những người mà đến nay vẫn được người dân trong làng nhắc đến như Đốc Phủ Kiểng, Phó Hoài, ông Hương Liêm… Qua một thời gian dài với biến động của thời cuộc, cơ ngơi của các nhân vật trên không còn lại gì, chỉ duy nhất ngôi nhà của ông Hương Liêm là vẫn tồn tại như một bằng chứng về thời kỳ vàng son của chủ nhân nó khi xưa.
Ông Hương Liêm có 6 ngôi nhà gồm một ngôi nhà chính là nơi thờ cúng và nghỉ ngơi của ông bà, 5 ngôi nhà phụ được bố trí hai bên và phía sau để làm nơi sinh hoạt, nhà kho, nhà xay lúa, nhà cầu. Cổng và các ngôi nhà phụ đã bị hư hỏng hoàn toàn, dấu tích còn lại chỉ là những thềm đá. Ngôi nhà hiện còn mà người dân trong vùng thường gọi là nhà ông Hương Liêm hay Huỳnh Phủ, là ngôi nhà chính cũng là ngôi nhà lớn và đẹp nhất bấy giờ. Căn cứ vào bức hoành phi mừng tân gia cho họ Huỳnh do tri huyện Bảo An họ Võ tặng vào năm Giáp Thìn và các dòng chữ ghi trên khán thờ ông bà Huỳnh Ngọc Khiêm thì ngôi nhà được hoàn thành trước năm 1904 (Giáp Thìn), vì năm 1904 là năm tổ chức tân gia và hai năm sau đó 1906 (Bính Ngọ) phần nội thất thờ tự mới thực hiện. Như vậy, ngôi nhà được xây dựng khoảng cuối thập niên 80 hoặc đầu thập niên 90 của thế kỷ XIX.


Bộ cửa chính

Thợ làm nhà là những người thợ ở Miền Trung vào, nơi vốn nổi tiếng với nghề chạm khắc gỗ từ lâu đời. Các thợ mộc được tính tiền công mỗi ngày bằng hình thức đong dăm bào bằng chén ăn cơm. Ông vốn là người tỉ mỉ nên dù giá công cao nhưng thợ không được làm quá 1 chén dăm bào một ngày vì như vậy cho là làm dối. Theo lời kể phải hơn 13 năm ngôi nhà mới xây dựng xong. Nhìn các công trình chạm khắc gỗ dày đặc và tỉ mỉ ở nội thất, chúng ta thấy thời gian xây dựng kéo dài là hoàn toàn hợp lý. Khi mà ở thời điểm bấy giờ toàn bộ từ các chi tiết nhỏ như tiện, đục, bào, chạm đều được làm bằng thủ công.

Nét đẹp chạm khắc của ngôi nhà



Bao lam hàng cột trước khám thờ

Huỳnh Phủ là một trong những công trình kiến trúc nhà ở bằng gỗ đẹp mang phong cách nghệ thuật nhà Nguyễn và được xếp vào loại di tích kiến trúc nghệ thuật. Qui mô xây dựng khá lớn nhưng phần chạm khắc trang trí cho ngôi nhà mới là phần có giá trị nhất.

1. Qui mô kiến trúc ngôi nhà:

Qui mô kiến trúc ngôi nhà hiện còn gồm ngôi nhà chính có diện tích 244,77m2 với một căn phụ bằng gạch nối liền ở góc phải. Nhìn từ bên ngoài và theo các hàng cột phía trước của ngôi nhà ta thấy có chín gian, nhưng thực ra đây là ngôi nhà ba gian được mở rộng ra bốn phía mà thợ mộc xưa ở Nam Bộ gọi là “Nhà tám đấm, tám khuyết” – một kiểu nhà rất to ngày xưa và chỉ có những người thật sự giàu có mới có khả năng xây dựng. Nhà xây dựng trên nền cao 0,7m chung quanh được kè đá xanh, thềm cũng được viền bằng những thanh đá xanh. Vách và hàng cột ngoài cùng làm bằng vôi gạch, nhưng nội thất và sườn nhà làm bằng các loại gỗ có giá trị cao như: gỗ lim, thau lau. Nhà có 80 cây cột (48 cột gỗ và 32 cột gạch ở hàng thứ tư) làm theo kiểu nhà xuyên trính (nhà rường ở Huế) với hai hàng cột cái gồm 8 cây – còn gọi là đại trụ – đứng song song nhau. Các cây cột cái cao trên 5,5m có chu vi 1,2m được gắn kết với nhau từng cặp theo chiều ngang bởi các cây trính và theo chiều dọc mỗi hàng có một thanh gỗ dài xuyên qua 4 cây cột. Mái lợp ngói âm dương, bên dưới là lớp ngói có hoa văn. Hai đầu song được xây kín và trang trí hình một bông hoa 4 cánh rất sắc xảo.

2. Trang trí chạm khắc của ngôi nhà:

Hình trang trí được chạm khắc khắp nơi trong nhà, từ vì kèo, khung cửa, bao lam tới vách ngăn. Các tấm chạm đã đạt tới trình độ cao của nghệ thuật chạm khắc gỗ. Bên cạnh các đề tài truyền thống thể hiện ước vọng về sự trường tồn, thanh tao, quyền quí là các hoa văn chạm khắc theo xu hướng tả thực với sự quan sát diễn tả rất sinh động các đối tượng miêu tả. Đầy hơn trong không gian chạm khắc này là các vật dụng đồ gỗ, nó cũng được đóng cùng lúc và cho riêng căn nhà với sự chạm khắc tỉ mỉ, cầu kì, cẩn ốc xà cừ như bàn, ghế, trường kỷ, bàn thờ…


Vách tường được tạo bởi ô hộc và chấn song  

 
Chi tiết cánh cửa  


Quấn thư trên đầu cột

Phần chạm khắc trang trí đầu tiên là các bộ phận kiến trúc như vì kèo, đầu kèo, cuối đuôi kèo, đuôi kèo đòn tay, cột, xuyên, trính rất công phu và sắc xảo… và trên cả những cái đố sát nền nhà cũng được chạm trổ, điều thật khó tìm thấy ở các ngôi nhà rường cổ khác trên nhiều địa phương trong cả nước.
Gần như các kèo của ngôi nhà đều được chạm trổ. Kèo chạm ít thì chạm ở đầu kèo như chạm nổi hình đầu rồng theo lối hoa lá hóa long, hoặc một chùm trái lựu. Kèo chạm nhiều thì chạm kín hai mặt kèo, hoa văn được chạm sinh động như các loại trái cây Nam Bộ, với các con vật gần gũi như chuột, chim… các loại hoa lá như dây leo, dưa hấu, hoa mẫu đơn, cúc cùng các vật dụng như cuốn thư, đàn tỳ bà. Từ hàng cột thứ ba ra hàng cột thứ tư là những thanh gỗ nhỏ, mỏng hơn làm dạng đầu rồng đuôi phụng; phần cạnh trên có hình cong gợn sóng, phần lõm xuống là nơi các cây đòn tay đi qua, tạo vẻ đẹp thanh thoát mà chắc chắn cho các cây đòn tay. Đặc biệt, gần cuối đầu kèo nơi giao với đầu cột hàng tư, mỗi cây được chạm hình một trong các tứ linh với phong cách đặc trưng của Huế gồm sen hóa quy, Phật thủ hóa long, mai hóa lân, cúc hóa phượng. Cùng sự xuất hiện họa tiết hoa văn ngũ phúc (5 con dơi) hay các vật trong bát bửu : bút, cuốn thư, bầu rượu, đoản đao… được cách điệu. Đây là những đề tài dân gian truyền thống, thể hiện sự mong muốn của người xưa về hạnh phúc. Các hoa văn chạm nổi theo kiểu đối xứng hai mặt của từng cây kèo, đối xứng kèo mái nhà trước và kèo mái nhà sau, đối xứng góc.


Khám thờ

Nhà có hai lớp vách gọi là vách đôi, lớp ngoài là tường, bên trong là vách gỗ. Phần trang trí nội thất chạm khắc tập trung ở lớp vách gỗ bên trong bao quanh năm gian nhà: 3 gian chính ở giữa và 2 gian phụ hai bên. Hoa văn ở các cửa, vách được đục chạm trong các ô lớn nhỏ hình vuông hoặc hình chữ nhật có khung viền gọi là trám hay ô hộc. Các trám hình chữ nhật được đặt nằm hoặc đứng xen với các trám suông tạo nên sự hài hòa, vui tươi cho mặt vách. Các ô hộc được trang trí hoa văn chìm nằm sâu trong khung viền, chạm lộng trang trí hoa văn lồi lên bằng mặt khung viền được sử dụng cho chạm nổi. Hoa văn chạm trên vách khá phong phú như hoa sen, khế, đào lộn hột, lựu, mãng cầu… cùng các con vật như lân, sóc cùng các đồ án dây hóa long, mai hóa long, bách điểu, cá hóa long, dưa hấu hóa phụng. Trong các trám còn sử dụng hình chạm lộng chữ Hỷ, Phúc và chữ Thọ.
Các trám ở phần khuôn sáo được chạm lộng để thông gió và lấy ánh sáng từ bên ngoài. Trám chữ nhật được lộng chữ rất tinh xảo hoặc chấn song to nhỏ đều đặn, thưa, dày khác nhau tạo sự thay đổi dễ chịu về thị giác. Còn các trám vuông lộng chữ hoặc hình các loại trái cây có bố cục đẹp mang tính địa phương như mãng cầu, bưởi, khế, măng cụt, điều chen giữa các bản chạm hoa hồng, hoa cúc…
Bốn cây cột cái phía ngoài và các cột ở năm cửa trước đều có liễn áp cột. Các liễn được viết bằng chữ Hán với hình thức đa dạng chữ lồng trong hoa lá, tranh và chữ “nhất họa nhất thi”, hoa lá nằm trong chữ và được bố trí đối xứng theo từng gian, chữ và hoa văn được cẩn xà cừ tỉ mỉ, công phu và khéo léo. Phần vách từ xuyên trở xuống có các hoa văn đa dạng nhất. Tùy theo mỗi cửa hoặc mỗi vách mà hoa văn được thể hiện khác nhau theo khung bao với các đố ngang, đố dọc. Hoa văn trang trí trên khung cửa chạm nổi xen với cẩn ốc xà cừ. Cửa giữa là cửa lớn nhất có hình cánh cung, khung cửa và kỷ đều có chạm trổ cầu kỳ văn hoa dây, tổ ong, cuốn thư. Trên cao là tấm biển “HUỲNH PHỦ” viết bằng chữ Hán theo lối đại tự được sơn son thếp vàng. Phần khung được chạm nổi kiểu truyền thống hoa dây, cuốn thư và tổ ong. Phần giữa đố dọc trang trí hoa văn chạm nổi xen kẽ với hoa văn cẩn xà cừ rất tinh tế. Dọc hai bên là mô típ hoa lựu, tùng lộc, mai điểu, bướm, phía trên là hoa dây leo, lựu, dơi, đàn tì bà được chạm khắc theo lối cách điệu. Các hình ảnh quen thuộc của mẫu đơn, sen, hạc, bách điểu, dơi, cá, lựu hóa cá, lựu hóa rồng hoặc phụng và các hoa văn hoa lá có cẩn xà xừ làm tăng thêm vẻ đẹp của cửa. Phần hai góc phía ngoài cánh cung chạm trổ mai trĩ, mai lan duyên dáng, uyển chuyển rất đẹp mắt. Đố ngang chia phần trên của khung bao lam làm 3 tầng; giữa phần này có một trám vuông lớn được chạm 3 con lân đang nhảy múa dáng rất động. Hoa văn các trám chữ nhật nhỏ được lộng chữ Thọ (kiểu Hán tự). Các trám còn lại được chạm trổ rất điêu luyện, khối của các mô típ rất cao, nét khắc trau chuốt, gần như tả thật các con vật gần gũi như tôm, cua, cá, xen cây cỏ. Còn cửa gồm 4 cánh rất dày, làm tbeo kiểu chuỗi dưới là trám chạm nổi sen – vịt – ếch và sen – chim – cá – lúa đối xứng ở hai bên, cảm nhận về thiên nhiên trù phú.
Giống như phần cửa giữa, cửa hai gian hai bên đều chạm trổ phức tạp. Phần giữa của các đố trong có các hoa văn chạm nổi như dây dưa hấu, sóc, chim, nho, bướm… các dây nho và dưa hấu được chạm nối quấn nhau và đều được hóa rồng, hóa phụng. Các ô hộc xen kẽ nhau bằng những hình vuông, chữ nhật đứng, nằm chạm nổi các mô típ hoa văn như lân, phụng, dây leo xen kẽ với các hoa văn cẩn xà cừ. Ở chân là bình hoa mẫu đơn, hai bên là mai – lan – trúc – điểu với thân mai được chạm hình rồng (mai hóa long) duyên dáng, tỉ mỉ. Hai góc ngoài chữ U chạm một chùm quả lựu cách điệu. Cửa vào hai gian phụ làm theo kiểu “thượng song hạ bản” có khung bao bên ngoài được trang trí các hoa văn chạm nổi dày đặc, sinh động như: hoa lan, lựu, dưa hấu,… xen kẽ với các hoa văn cẩn ốc xà xừ, khoảng giữa là các song tiện hình chuỗi. Riêng khu hình vòng nguyệt được trang trí các mô típ hoa văn dây hóa long, hoa mẫu đơn – chim trĩ, dưa hấu hóa long, sóc… Các ô hộc được chạm nổi hai lớp rất công phu với hình loan, phượng vờn mây.


Vách và gian cửa bên, sự kết hợp giữa các ô hộc và chấn song. Các đồ án được chạm trổ và cẩn ốc

Các cửa đầu song có hình cánh cung kích thước giống như cửa hai gian chính thức phía trước nhưng hoa văn trang trí khác nhau. Các trám vuông to nhất ở đố ngang phía trên chạm hình lân (cửa trái), hình long, phụng (của phải) các trám chạm nổi rất sắc xảo, các loại cây trái xen với chạm lộng các chữ Vạn và chữ Phúc. Phần khung cửa ở các đố dọc, đố ngang được chạm đục hoa văn đủ loại. Ba gian thờ chính là nơi trang trọng nhất của ngôi nhà nên tất cả hoa văn câu chữ trang trí đều được sơn son thiếp vàng hoặc cẩn xà cừ. Bốn cột cái có bao lam cột bao quanh với thủ quyển ở đầu và liễn áp cột, trên khuôn sáo ở ba gian thờ chính treo ba bức hoành: Gian giữa “HIẾU ĐỆ TRUNG TÍN”, bên phải “THỌ NAM SƠN”, bên trái “LAN QUẾ PHƯƠNG”. Bao lam cột có khung bao bên ngoài, phía trên là các trám, dọc hai bên khung bao lam các hoa văn được chạm nổi theo từng cụm dạng tứ quý: Mai – Lan – Cúc – Trúc, chân khung bao lam có kỷ gỗ kê chân áp cột hình nửa chiếc độc bình, miệng bình là đĩa ngũ quả: lựu, điều, khế hoặc đào tiên, xoài; thân bình chạm nổi hình hoa mai, cúc, trúc.
Hoa văn ở khám thờ của mỗi gian mang tính chất khác nhau nhưng đều trang trí phức tạp. Bao lam cột chạm nổi cầu kỳ, hình lưỡng long chầu nhật, hai bên lan – bách điểu (gian giữa); chạm hình mai hóa long, chuột – quả – lựu, sóc – hoa lan (gian bên phải); bao lam giữa là cuốn thư mở, hai bên bao lam là đơn trĩ cùng với chuột – hoa lan (gian bên trái). Liễn áp cột ở hai cột gian giữa là 24 bức tranh minh họa được chạm và cẩn ốc xà cừ về truyện Thập Nhị Tứ Hiếu. Mỗi bức tranh có 3 câu thơ gồm 20 chữ trích trong sách “Nhị Thập Tứ Hiếu”. Khám thờ làm hai lớp kiểu long trụ chạm hình tứ linh, chân long trụ chạm hình lân, trên đỉnh là hình lưỡng long chầu nhật, dọc theo bao lam hình quy, phụng và hoa lan. Hoặc chạm hình loan phượng chầu nguyệt ở trên đỉnh, hai bên chạm long giáng, hoa mẫu đơn – trĩ; cúc – trúc; tùng lộc; mai – lan…
Tùy theo kiểu chạm khắc mà hoa văn khác nhau, hoa văn chạm lộng, ngoài lọng hình còn có lọng chữ (Hán tự) hoặc song; chạm lưới với hoa văn hình tổ ong. Đặc sắc và công phu nhất là hoa văn ở các trám với kiểu chạm nổi hai lớp, lớp bên trong có hình chữ thập, hình mắt lưới, hình tròn, hình cánh hoa… lớp này làm nền cho lớp hoa văn chạm nổi bên ngoài. Hoa văn ở từng mảng không đơn thuần mà thường là kết hợp các loài động thực vật trong cùng một chủ đề: sen – vịt – ếch, chim – sen, chim – gà – hoa cỏ; mai – đào… Điều làm cho các hoa văn trang trí hấp dẫn sinh động là dù cùng một chủ đề nhưng các nghệ nhân đã thể hiện chúng ở các tư thế khác nhau, không có sự trùng lắp ngay cả trong cùng mảng trang trí. Hai con cùng loại trong một trám được làm ở tư thế ẩn hiện hoặc đối nghịch nhau như cua một con nằm úp, một con ngửa; chim, chuồn chuồn, bươm bướm: con bay, con đậu. Có nơi các con thú được thể hiện ẩn trong cây lá, chim chóc treo lơ lửng trên cành, luồn lách qua những cây trái thật sinh động.
Đồ án trang trí còn thể hiện sự phóng khoáng của các bậc thầy tài hoa trong việc kết hợp đề tài dân dã là các loài động thực vật quen thuộc với cuộc sống hàng ngày của cư dân địa phương như chuồn chuồn, lựu cá, chim, mãng cầu… xen với các đề tài theo khuôn mẫu đã có tứ linh; tứ quý, tứ thời. Các mô típ phương Tây cũng xuất hiện một cách nhuần nhuyễn như hoa hồng, nho, sóc, chuỗi ngọc. Đây là một di tích kiến trúc có nhiều yếu tố mỹ thuật quý giá, đánh dấu một giai đoạn trong lịch sử trang trí của mỹ thuật truyền thống Việt Nam tại Nam Bộ.

Phạm Thanh phương
Ảnh trong bài: Nguyễn Thành Công
Tài liệu tham khảo:
[1]- Bảo tàng Bến Tre : Lí lịch di tích.
[2]- Tạp chí “Kiến trúc nhà đẹp” số tháng 7 năm 2002.
[3]- Qua lời kể của ông Huỳnh Ngọc Chất, 74 tuổi cháu đời thứ 5 của ông Huỳnh Ngọc Khiêm và ông Tô Quang Minh 80 tuổi – cháu rể đời thứ 5 của ông Huỳnh Ngọc Khiêm.
read more...

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2012

Sách mỹ thuật cơ bản và nâng cao: Để Vẽ Tốt Hình Họa Cơ Bản


Sách mỹ thuật cơ bản và nâng cao: Để Vẽ Tốt Hình Họa Cơ Bản (Phần 2)
Tác giả: Họa sỹ Phạm Huy Hùng

7. Mảng đặc và khoảng trống
Nhiều bạn khi vẽ hình họa thường chỉ quan tâm tới mảng đặc, nhưng lại bỏ qua khoảng trống, mà không biết rằng mối quan hệ giữa mảng đặc và khoảng trống là rất mật thiết.


Khối cầu và khối hộp

Khoảng trống nói chung có thể là những phần mặt tranh hoàn toàn trống rỗng không có hình… khi mà sự hiện diện của một chủ thể chiếm chỗ nổi bật trên nền giấy. Nói một cách khác, khi hình vẽ của bạn đang đóng vai trò choán chỗ và phần được chừa lại chính là khoảng trống.
Khoảng trống xuất hiện song song ngay sau thao tác đưa một hình choán chỗ vào tranh… như một điều hiển nhiên và có lẽ vì vậy vô tình bạn đã không mấy quan tâm tới nó (người khoét cái lỗ tròn đầu tiên lên tượng trong nền điêu khắc hiện đại là Acsipencô người Nga. Ông nhận ra tác dụng của nó một cách tình cờ. Ông tự thuật như sau: “một hôm thân sinh tôi mua về hai chiếc lọ hoa hoàn toàn giống nhau, tiện tay, tôi đặt chúng cạnh nhau. Bỗng tôi, phát hiện ra một chiếc lọ thứ ba, trong suốt, vô thể chất, do khoảng không giữa hai chiếc lọ kia tạo thành. Đó là điểm xuất phát để tôi đi đến lý thuyết về một không gian trống rỗng được tượng trưng bằng sự vắng mặt của vật thể. Từ đó nhìn vào đâu tôi cũng thấy hư không gợi cho mình vô vàn những khối tượng và tôi đưa nó vào điêu khắc” – Dẫn theo Thái Bá Vân - Điêu khắc Đình làng).
Lão Tử – Triết gia vĩ đại Trung Quốc nói: “Ba mươi sáu cái “bức” (nan hoa) quanh một cái “cốc” (trục) nhờ chỗ “không” mà “có” công dụng của cái xe. Nặn đất thó làm chén bát, nhờ chỗ “không” mà “có” công dụng của chén bát. Trổ cửa và cửa sổ để làm nhà nhờ chỗ “không” mà “có” công dụng của cái nhà. Cho nên “có” để làm điều lợi, “không” để làm công dụng”.
Tinh thần “có” “không”, “thường hữu”, “thường vô” được các họa sĩ Trung Hoa xưa biểu đạt cực kỳ phong phú, tài tình trên cơ sở quan hệ giữa mảng đặc và khoảng trống. Những khoảng trống đầy biểu cảm là nơi gửi gắm hoài bão và tình cảm, tinh thần thanh khiết cao vợi của nhiều thế hệ họa sĩ Trung Hoa. Tuy vậy ở đây tôi chỉ giới thiệu với bạn về những khoảng trống có giá trị hỗ trợ giúp cho bạn xây dựng được bài hình họa vững vàng.


Khoảng trống với hình họa người 

Trước hết bạn cần đưa những khoảng trống trở về những hình thức đơn giản tới mức tối đa. Nghĩa là có xu hướng hình học như: hình vuông, hình tròn, hình tam giác, hình thang, hình thoi…Và bây giờ bạn hãy để ý tới những khoảng trống được tạo ra bởi quan hệ giữa những hình đơn hay bộ phận cơ thể với nhau.
Ví dụ: ở mẫu vẽ cơ bản bao gồm hai khối hộp và cầu này, nếu bạn chỉ dựng hình trên cơ sở quan sát tương quan tỉ lệ giữa hai khối cầu và hộp thì theo tôi, bạn vẫn cần so sánh tương quan tỉ lệ giữa hai khối này với phần khoảng trống, (phần được gạch đậm ở hình vẽ minh họa). Tỉ lệ giữa mảng đặc và khoảng trống ở bức vẽ của bạn phải có tính đồng bộ thống nhất và đồng dạng với tổng thể nơi mẫu vẽ.
Đối với một hình họa người, có thể bạn sẽ gặp nhiều khoảng trống hơn nữa, đó là những khoảng trống bị kẹp bởi hai hay ba bộ phận cơ thể. Quan sát ví dụ về khoảng trống trong bức vẽ phác hình họa người mà tôi đưa ra ở đây, hẳn bạn có thể nhận thấy: quan sát và sử dụng những khoảng trống, đôi khi thay vì vẽ phần thực, tức là vẽ trực tiếp vào bộ phận cơ thể, thì bạn có thể vẽ ngược lại nghĩa là vẽ khoảng trống hoặc vẽ cùng lúc cả mảng đặc lẫn khoảng trống, sau đó vẽ khoảng trống (nếu nó tiện lợi cho việc nhìnvà so sánh tỉ lệ của hình), phần còn lại sẽ là mảng đặc.
Với cách vẽ phối trợ xen kẽ không tách rời giữa mảng đặc và khoảng trống như vậy, đôi khi bạn có thể xây dựng được bức vẽ hình họa (dừng lại ở nét phác) đơn giản đến bất ngờ.
Bạn cũng nên phối hợp nhiều khả năng quan sát khác phối hợp với nhau cho thật linh hoạt. Tuy nhiên tôi vẫn lưu ý bạn không nên bỏ qua cách nhìn những khoảng trống. Bởi chính nó sẽ gợi mở và dẫn dắt bạn khám phá điều hòa quan hệ giữa mảng đặc và khoảng trống ở một phạm vi rộng hơn với đầy đủ ý nghĩa của nó.

8. Tâm lý thị giác của hình
Sẽ là thiếu sót khi chúng ta dựng hình họa mà không hiểu biết về tâm lý thị giác của hình.
Tác giả Nguyễn Quân đã có nhiều bài viết và có hẳn một cuốn “Tiếng nói của hình và sắc” qua đó tác giả phân tích kỹ tâm lý thị giác của hình. Chỉ tiếc (vì nhiều lý do) hình như những tài liệu này còn ít tới tay các em học sinh, sinh viên. Để tìm hiểu kỹ hơn các em có thể tìm đọc “Tiếng nói của hình và sắc” của Nguyễn Quân. ở đây (trong khuôn khổ bài viết) tôi chỉ có thể nói tới một cách sơ lược.
- Hình vuông – Khối vuông tĩnh – Tạo ấn tượng về một cố kết vững vàng chắc chắn nhưng cũng nặng nề kém linh hoạt đôi khi lạnh lùng.
- Hình chữ nhật đứng có hướng chuyển động chính là, trên dưới bởi vậy tạo cảm giác và ấn tượng tốt về chiều cao, sự hướng thượng và thăng thiên. Tuy vậy do bị kéo dài theo trục đứng nên cũng có xu hướng không chắc chắn và dễ đổ vỡ.
- Hình chữ nhật nằm ngang có xu hướng chuyển động mạnh về chiều nằm ngang, bởi vậy đôi khi có cảm giác bị đè bẹp, và cũng không chắc chắn. Tuy vậy nó tạo nên ấn tượng về sự thanh bình, nghỉ ngơi nếu quá đà có thể rơi vào cảm giác quên lãng.



LEONARDO DA VINCI. Hình vẽ người

- Hình Tròn – Khối cầu: Chứa đựng cả hai đặc tính động và tĩnh, hình tròn cũng như khối cầu cho ta cảm giác nhẹ, nhỏ, có cảm giác nhỏ về thể tích.
Đường tròn êm ái và gây cảm giác về nhục cảm. Khi có nhiều vòng tròn kết hợp còn tạo nên cảm giác màu mè.
- Hình Ô van: Hình ô van năng động hơn hình tròn, nó gợi sự chuyển động. Khi bị doãng rộng nó tạo cảm giác uể oải. Khi bị kéo dài về chiều cao nó cũng tạo cảm giác về sự đổ vỡ.
- Hình tam giác: Có cảm giác chắc chắn ổn cố đôi khi lạnh lùng nếu đó là tam giác đều. Hình tam giác chuyển động mạnh hơn về phía có góc nhọn nhỉnh hơn trong tổng thể. Hình tam giác có đáy trùng với phương nằm ngang tạo cảm giác trang nghiêm, nâng lên về tinh thần, sự cao sang, sự thăng thiên và tán dương. Hình tam giác ngược, hoặc hình thoi làm nảy sinh cảm giác không chắc chắn và mong manh.
- Hình xoáy trôn ốc: Vô cùng năng động, có sức hút lớn và chuyển động mạnh mẽ, có khả năng tạo ảo giác nhưng cũng vì thế nó lại là hình không ổn định và bền vững.
Các hình cơ bản khi trục tự nhiên bị thay đổi thường trở nên động hơn so với trạng thái bình thường.
Việc nắm được chiều hướng chuyển động và trạng thái động, tĩnh của hình không những giúp bạn trong việc xây dựng một bố cục cơ bản cũng như trong những bước tìm hiểu sáng tạo mà còn hỗ trợ bạn rất nhiều trong quá trình xây dựng một hình họa cơ bản.
9. Cân bằng
Từ tổ tiên xa xưa đến con người ngày nay đều sống trong môi trường tự nhiên có sự cân bằng. Dù cho điều kiện tự nhiên ngày nay có thể đã khác xưa, con người ngày nay cũng sáng tạo tự trang bị cho mình những phương tiện để cải thiện điều kiện sống đối với môi trường khắc nghiệt. Tuy vậy con người thực ra vẫn sống trọn trong môi trường có quy luật của tự nhiên. Tự nhiên bao giờ cũng có khả năng điều tiết tốt nhất để có sự cân bằng, sự cân bằng đó diễn ra qua chu kỳ của ngày và đêm, nóng và lạnh, thức và ngủ…
Cũng xuất phát từ đó, trong môi trường cân bằng của tự nhiên – nhu cầu cân bằng xã hội và tự cân bằng của con người như một tất yếu. Lý luận Đông y về cơ bản lấy cân bằng và hài hòa âm dương làm căn bản để ngăn chặn và chữa trị đối với mọi biểu hiện bệnh lý.
Trong hội họa cũng vậy, bức vẽ của bạn bao giờ cũng đòi hỏi có sự cân bằng thị giác. Cơ sở cơ bản của cân bằng thị giác là dựa vào trục tung và hoành.
Điểm cân bằng của một bức vẽ về nguyên tắc thường ở giữa bức tranh.
Về cơ bản có 3 cách cân bằng và qua đó phát sinh hình thức thứ 4.Khi vẽ một bức tranh theo trục đứng (trục tung) tức là bức vẽ của bạn đang có xu hướng thiếu trục hoành, nhu cầu tự thân ở đây là bạn phải bổ sung cho nó thêm những đường hướng của trục hoành. Ngược lại khi bạn vẽ bức tranh trục ngang tức là bức vẽ của bạn đang có xu hướng thiếu đường hướng của trục tung, nhu cầu tự thân ở đây là bạn phải bổ sung cho nó những đường hướng theo trục tung. Kiểu cân bằng này bạn sẽ bắt gặp khá nhiều qua những họa phẩm của các họa sĩ Trung Hoa xưa. Kiểu cân bằng trên tạo nên những trạng thái tình cảm mực thước ổn cố, nhịp nhàng và hài hòa, hiếm khi nó tạo nên những bất ngờ năng động. Tôi tạm gọi đó là hình thức cân bằng ổn định có chu kỳ.
Kiểu cân bằng thứ hai tôi sẽ giới thiệu sau đây tạo nên những bất ngờ về xử lý thông tin thị giác.
Hình A - hai nhóm: tín hiệu thị giác (mảng, hình, khối, nét, màu sắc…) có xu hướng mất cân bằng rõ rệt. Để tạo nên sự cân bằng tương đối ta có thể xê dịch một trong hai nhóm hình vào gần hoặc rời xa vị trí trung tâm của bức vẽ và ở hình B là một khả năng cân bằng, tuy vậy xu hướng cân bằng vẫn chưa thật sự ổn định. Ta có thể đưa thêm hình hoặc tiếp tục xê dịch hai hình. Giả sử ta đưa thêm hình (hoặc nhóm tín hiệu thị giác) vào góc trái của khuôn hình (hình vẽ C), lúc này thay vì được cân bằng ta nhận thấy việc đưa thêm một hình vào góc trái khuôn hình đã tạo nên mất cân bằng trầm trọng.
Bây giờ chuyển hình được đưa thêm này vào góc đáy bên phải khuôn hình ta nhận thấy khuôn hình lúc này đã có sự cân bằng cần thiết (hình D). Với đặc tính của lối cân bằng này tôi tạm gọi là: cân bằng động. Các họa sĩ hiện đại ưa dùng lối cân bằng này. Vì nó có khả năng tạo nên những xử lý khoáng đạt và bất ngờ.
- Cân bằng theo chiều sâu: Là lối cân bằng giữa các nhóm thông tin thị giác thuộc các lớp theo chiều sâu của bức tranh.
Sự choán chỗ nhóm hình hay mầu sắc… quá nhiều ở phía trước, trong khi hậu cảnh của nó quá trống vắng rất có thể sẽ cần đến nhu cầu cân bằng.
- Lối cân bằng thứ tư: Có thể được sinh ra bởi khả năng phối hợp hài hòa từ 2 đến 3 khả năng cân bằng nói trên với những mức độ phối trợ khác nhau có thể sẽ tạo ra những bất ngờ nhất định về khả năng của sự cân bằng.

10. Điều hòa đậm nhạt – giải quyết chính phụ




PIERRE PAUL PRUD'HON. Hình họa bán thân nữ. Than đen và than trắng trên giấy xám. 28x21,5cm 

Những họa sĩ thuần thục có thể cùng lúc xử lý hàng loạt những thao tác như dựng hình, cân bằng, bố cục, lên đậm nhạt… nhưng bạn là người mới học vẽ bạn không nên làm như vậy. Bạn hãy bóc tách để hoàn thiện từng phần một và tất nhiên sẽ có lúc bạn cần phải xâu chuỗi những thao tác đó sao cho nó gắn kết đồng bộ hữu cơ.
Sau khi dựng hình xong, bạn cần phân chia hệ thống đậm nhạt. Bạn hãy dim mắt để làm mờ đi các bộ phận chi tiết và tìm những điểm nổi bật. Bạn hãy phân chia rõ hệ thống sáng tối và cả hệ thống phản quang (nếu có). Sau đó dùng chì (hay than) làm đậm sơ bộ toàn bộ hệ thống bên tối (và thường ưu tiên cho những bộ phận có độ đậm mạnh hơn được lên đậm trước). Khi có độ đậm ở mức trung bình bạn bắt đầu lên đậm cho hệ thống bên sáng (và cũng bắt đầu từ những bộ phận đậm nhất của hệ thống sáng). Mỗi khi lên đậm cho bên sáng bạn đừng quên thêm cho bên tối những độ đậm cần thiết để có được sự phân biệt hệ thống sáng tối.
Tôi không gọi thao tác này là đánh bóng mà gọi là: điều hòa đậm nhạt. Bạn hãy suy nghĩ đến cách gọi đó. Bí quyết trong khi đánh bóng chính là điều hòa đậm nhật. Chỉ có thông qua điều hòa đậm nhạt bạn mới có được bức vẽ có hệ thống sáng tối trong trẻo và thuận mắt; Và cũng chỉ có thông qua điều hòa đậm nhạt bạn mới chủ động chọn vị trí hoặc bộ phận thích hợp làm điểm nhấn, điểm hút mắt hay nhóm chính cho bức vẽ.
Có thể bạn đã làm quen với việc giải quyết mối quan hệ chính phụ trong quá trình làm một bài tập bố cục người hoặc phong cảnh. Nhưng hầu như các bạn đã quên đặt vấn đề chính phụ và điều hòa đậm nhạt trên một bức vẽ hình họa.
Sở dĩ có điều này, có lẽ xuất phát từ hai cách nghĩ. Khi bạn tiến hành phác thảo bố cục, và khi bạn đứng trước một mẫu vẽ. Một bên, bạn phải chủ động đưa vào mặt tranh những nhân vật, cây cối, nhà cửa hoặc đồ vật… ngược lại khi đứng trước mẫu hình họa bạn thường bị rơi vào thế thụ động. Thực ra khi vẽ hình họa tất nhiên bạn vẫn cần bám sát mẫu, nhưng không để mình rơi vào thế thụ động bằng việc sao chép mẫu. Bạn hãy quan sát, so sánh hệ thống hình khối… rồi bắt đầu nét phác trên thế chủ động.
Bạn hãy thử nhìn vào hai người (hoặc hai đồ vật) đứng gần nhau và cùng cách mắt bạn một khoảng xấp xỉ bằng nhau. Trước hết bạn hãy nhìn vào khoảng giữa (điểm chia đôi đoạn thẳng nối từ vị trí của người này tới vị trí của người kia) hai người. Bạn sẽ không nhìn thấy thật rõ người nào, cả hai đều hơi mờ phải không?
Bây giờ thay vì cách nhìn trên bạn hãy hướng cái nhìn của bạn tập trung vào một người duy nhất. Bạn sẽ thấy rất rõ người này, còn người kia chỉ nhìn thấy rất mờ (như một dấu hiệu nhận biết) và không rõ một chi tiết nào. Với cách nhìn vào khoảng giữa hai nhân vật, nếu một trong hai người có những chi tiết như màu quần áo hoặc sự đối lập sáng tối mạnh sẽ gây sự chú ý của bạn hơn.
Tình hình chung khi lên đậm nhạt cho bức hình họa của bạn cũng vậy. Khi quan sát để lên khối cho một bộ phận cơ thể nào đó, tất nhiên bạn không thể không hướng cái nhìn của bạn tập trung vào vị trí bộ phận đó. Như đã nói ở trên, lúc này bạn sẽ thấy rất rõ tương quan sáng tối của bộ phận này. Bạn ghi nhận nó, rồi sau đó lên đậm nhạt cho bộ phận này đúng như tương quan mà bạn vừa quan sát được? Bạn đã mắc lỗi quan sát rất lớn ở điểm này. Nếu bạn tiếp tục xử lý như trên cho nhiều bộ phận khác, thì bức vẽ của bạn chỉ là sự lắp ghép những tương quan rõ nét như nhau, thành một tổng thể khô khan, cứng nhắc.
Không gian trong hội họa phương Tây có thể liên hệ đơn giản như khi bạn đứng trước một khối cầu. Toàn bộ khối cầu chỉ duy nhất một điểm gần nhất với vị trí mắt nhìn của bạn. Những điểm còn lại đều không cùng vị trí. Qua đó có thể nói: không một điểm nào trên mẫu có đậm nhạt như nhau hay có tương quan sáng tối như nhau. Trong khi đó cơ thể con người hoặc tĩnh vật thì không phải bộ phận nào cũng có tương quan giống nhau. Chẳng hạn, tay và mặt bao giờ cũng có độ rắn chắc hơn ngực, đùi, không những thế nó còn có thể bị rám nắng. Vì vậy, tương quan về chất cũng như tương quan sáng tối của nó phải hoàn toàn khác biệt với ngực và đùi. Hai tay tuy có độ rắn chắc và mầu sắc như nhau, nhưng một tay đặt trong bóng tối còn tay kia đặt ngoài sáng lại tạo nên những tương quan hoàn toàn trái ngược. Gộp một vài vấn đề tôi vừa nêu trên, hẳn bạn đã thấy bức vẽ hình họa ở tình trạng mà tất cả các tương quan sáng tối tại mọi vị trí đều như nhau là hoàn toàn không thuận mắt.


MICHALANGELO BUONARROTI. Phán xét cuối cùng (Trích đoạn). Nhà thờ Sistine. Nề họa

Mỗi khi quan sát chi tiết quan hệ sáng tối của một bộ phận nào đó bạn nên ghi nhớ rằng: cái ấn tượng rõ ràng (mà bạn nhận được bởi sự chú tâm của cái nhìn mà bạn dành cho nó), chỉ có giá trị giúp bạn nhận biết và phân chia khối hình cho mạch lạc. Công việc tiếp theo, bạn phải dim mắt lại, rồi đưa chi tiết, bộ phận vừa quan sát vào tổng thể – từ tổng thể này (tức là áp dụng cái nhìn cùng lúc đồng bộ tổng thể), bạn sẽ có điều kiện nhận biết, so sánh cấp độ chênh lệch sáng tối của bộ phận với tổng thể. Qua đó bạn có thể phân vùng sáng tối với những tương quan mạnh nhẹ, chênh lệch khác nhau hợp lý. Với cách làm việc như vậy không những bạn có thể điều hòa đậm nhạt hợp lý mà còn có thể lựa chọn điểm nhấn mạnh, điểm buông thả và nhắc lại… để tạo dựng chính phụ cho bức vẽ. Khi bạn chưa thật vững tay, thì việc yêu cầu bức vẽ của bạn có chính phụ quả là đã hơi cao một chút. Tuy vậy bạn vẫn cần biết đến và tập tiếp cận với nó. Và có thời điểm bạn sẽ làm chủ được nó.ở mức sơ lược, trong khi dim mắt để so sánh tương quan đậm nhạt bạn đã nhận ra những vị trí, bộ phận, hay vùng có tương quan mạnh. Đồng thời bạn cũng nhận ra những vùng có tương quan thật nhẹ, rồi cả những vùng lặp lại tương quan mạnh, nhẹ nữa phải không? Những vùng có tương quan mạnh thường có khả năng hút mắt của bạn hơn cả. Căn cứ vào đó, bạn hãy chọn lựa một vị trí, bộ phận có sự gợi cảm thẩm mỹ và có sức thu hút cái nhìn của bạn hơn cả, miễn là vị trí này không ở quá gần 4 góc tranh và 4 cạnh hông của bức vẽ,. Thông thường, điểm nhấn này được đặt vào một trong 4 vị trí có lợi cho mắt nhìn (4 điểm này được xác định bằng cách đơn giản là bạn hãy chia mỗi cạnh hông của bức tranh làm 3 phần bằng nhau, rồi nối các điểm đó với nhau theo những đường song song với trục ngang và trục dọc, giao điểm của 4 đường này chính là 4 điểm cần tìm). Trong khi, bạn chủ động nhấn mạnh gây sự chú ý về phía bộ phận nào đó của bức vẽ thì tất nhiên bạn cũng cần gia giảm hay điều hòa đậm nhạt cho những vùng hoặc bộ phận khác. Qua đó ít nhiều bạn đã bước đầu làm quen với cách đặt vấn đề chính phụ trong khi vẽ hình họa. Hy vọng bạn sẽ không dừng ở bước này mà tiến xa hơn ở những mức xử lý chính phụ phức tạp hơn nữa.

11. Bố cục
Sẽ là thiếu sót khi bạn vẽ hình họa mà không đặt vấn đề bố cục. Tại sao phải bố cục? hiểu đơn giản thì bố cục giống như việc bạn cố gắng tìm ngôn từ để diễn đạt cho người khác hiểu nội dung mà bạn muốn trao đổi. Nhưng vì ngôn ngữ của bạn không cố kết tập hợp thành những câu, những ý có nghĩa. Ngược lại lộn xộn, không tổ chức thì tất nhiên bạn không thể làm cho người đối chuyện có thể hiểu được nội dung bạn muốn trao đổi. Vậy bố cục là rất cần thiết


A.A.IVANOV. Hình họa nữ. Cuối 1983-đầu 1984. Bút chì và than trên giấy

Bố cục là sự phối hợp những tín hiệu thị giác (hình khối, màu, nét và các biến thể v.v…) từ dạng tự do đơn lẻ, đến phức tạp trở nên một tổng thể có sự phối hợp hài hòa và chủ động trong một không gian cụ thể, nhằm biểu lộ định hướng nhất định trạng thái tình cảm của nghệ sỹ.
Có vô số kiểu bố cục, tuy vậy ta có thể nhóm chúng thành một vài loại bố cục cơ bản như sau:
- Bố cục đối xứng
Kiểu bố cục này thường được tạo ra từ trục tự nhiên của hình ảnh. Trong khi các yếu tố phụ được phân chia ít nhiều đối xứng ở cả hai bên. Kiểu bố cục này thường được các họa sỹ Trung cổ ưa sử dụng. Nó tạo nên những giá trị có tính quyền lực, trang trọng…
- Bố cục lệch tâm
Bố cục này xuất phát điểm từ kiểu bố cục đối xứng, bằng cách xê dịch yếu tố được ưu tiên của hình ảnh lệch đôi chút khỏi trục tự nhiên. Cách bố cục này được các họa sỹ Phục Hưng sử dụng, sau đó được các họa sỹ ấn Tượng rất ưa dùng. Nó năng động và gần gũi, tự nhiên hơn hẳn so với bố cục đối xứng.
- Bố cục chéo góc
Bố cục chéo góc hết sức năng động. Chúng như kéo mắt người xem trượt xuống dốc hoặc vượt lên dốc tùy thuộc vào chiều chéo lên hay chéo xuống. Chẳng hạn bức
“Maja khỏa thân” của F. Goya (1716 – 1828) được bố cục có xu hướng hút mắt người xem theo trục chéo đi lên.
Ngược lại bức vẽ “Ngụ ngôn về những người mù” – Bruegel Le Vieux (1525 – 1569) lại bố cục có xu hướng kéo mắt người xem theo trục chéo đi xuống.
- Bố cục trục ngang
Tình cảm ổn định, có điều kiện phối trợ với những hướng chéo lên nhất định tạo ấn tượng vui vẻ thanh thản và mạnh mẽ. Nếu phối trợ với những hướng chéo đi xuống tạo cảm giác đổ vỡ, u ám.
- Bố cục tam giác
Nếu bố cục nằm gọn trong tam giác thường gây cảm giác tôn nghiêm nhưng lạnh lùng. Ngược lại bố cục nằm tương đối trong hình tam giác, gây cảm giác đi lên thăng hoa và phấn chấn…
- Bố cục tam giác đôi khi cũng gây nên những xung đột mạnh mẽ (bức chạm Chọi gà trong điều khắc Việt Nam.
Ngoài ra còn có bố cục có xu hướng là hình tròn, bố cục có xu hướng là hình chữ nhật…những bố cục này bắt gặp khá nhiều ở mỹ thuật cổ Việt Nam…
Tuy nhiên tất cả những hình thức bố cục trên sẽ trở nên vô cùng phong phú tùy thuộc vào sức sáng tạo của nghệ sỹ, mỗi chủ đề, mỗi họa sĩ đều có sở trường và ưa dùng những kiểu bố cục khác nhau.
(Tiếp theo kỳ trước)
Phạm Huy Hùng
read more...